Tư vấn chính sách: Ảnh hưởng của thuế tối thiểu toàn cầu đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Ngày 18/08/20023 vừa qua, Hội thảo khoa học với chủ đề “Ảnh hưởng của Thuế tối thiểu toàn cầu đến Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam” đã diễn ra thành công tốt đẹp với sự quan tâm đặc biệt của khoảng 100 người tham dự đến từ nhiều cơ quan, tổ chức, trường đại học và doanh nghiệp lớn trong cả nước.



Chính sách thuế tối thiểu toàn cầu là một chính sách lớn, có thể có tác động mạnh mẽ tới FDI của Việt Nam và cần có các nghiên cứu một cách vĩ mô, toàn diện, đồng thời phải cụ thể và đa chiều.

1) Giới thiệu về Hội thảo

Hội thảo Ảnh hưởng của thuế tối thiểu toàn cầu đến đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nhằm mục đích tăng cường trao đổi tổng quan về Thuế tối thiểu toàn cầu và ảnh hưởng của thuế tối thiểu toàn cầu đến Việt Nam đặc biệt là tác động tiềm tàng của đề xuất Thuế tối thiểu toàn cầu tới đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Hội thảo cũng là cơ hội để các chuyên gia, các nhà hoạch định chính sách và doanh  nghiệp chia sẻ, trao đổi về những phản ứng, động thái của Việt Nam và hiểu thêm về mong muốn của khu vực doanh nghiệp trước đề xuất thuế tối thiểu toàn cầu.

Đây là Hội thảo nằm trong Chuỗi UEB Research and Sharing do Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế chủ trì về chuyên môn. Trên cơ sở các chia sẻ, thảo luận trong hội thảo, các kiến nghị chính sách phù hợp sẽ được đề xuất nhằm tiếp tục duy trì và nâng cao tính hấp dẫn của Việt Nam trong việc thu hút và phát triển khu vực có vốn đầu tư nước  ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư lớn trong các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.

Hội thảo được tổ chức vào sáng thứ sáu, ngày 18/08/2023 tại  Hội trường 801, Nhà E4, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội với sự trình bày của 4 diễn giả chính: 

1.PGS.TS Nguyễn Anh Thu – Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế, ĐHQGHN
2.TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV kiêm Giám đốc Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV.
3.Bà Nguyễn Thu Thủy – Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế - Bộ Tài chính
4.Bà Hương Vũ - Tổng Giám đốc, Công ty cổ phần Tư vấn Ernst & Young Việt Nam

2)Các tư vấn, khuyến nghị chính sách được đề cập đến trong buổi tọa đàm

Chính sách GMT là một chủ đề đang được quan tâm trên toàn cầu, đặc biệt là trong bối cảnh các công ty đa quốc gia ngày càng phát triển và trở nên quan trọng hơn trong việc đóng góp vào nền kinh tế toàn cầu. Thủ tướng Chính phủ đã thành Tổ Công tác đặc biệt về thuế suất tối thiểu toàn cầu và ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ về nghiên cứu và đề xuất các giải pháp liên quan đến thuế suất tối thiểu toàn cầu của OECD. Điều này cho thấy rằng Việt Nam đang chú trọng và đánh giá cao tầm quan trọng của chính sách này trong bối cảnh đóng góp của các công ty đa quốc gia vào nền kinh tế Việt Nam ngày càng tăng lên.

Tuy nhiên, việc triển khai chính sách này ở Việt Nam vẫn còn ở giai đoạn đầu. Nhiều cuộc thảo luận và sự kiện về chủ đề này đã được tổ chức tại Việt Nam, bao gồm hội thảo vào tháng 6 năm 2022 có sự tham gia của các chuyên gia thuế, chuyên gia pháp lý và các nhà hoạch định chính sách tại Hà Nội. Một số hội thảo thảo khác cũng được tổ chức để thảo luận về GMT, chẳng hạn như: Hội thảo “Giải pháp duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư trong bối cảnh thực thi thuế tối thiểu toàn cầu”, ngày 28/2/2023 do Tạp chí Nhà đầu tư tổ chức; Hội thảo “Quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu: Kinh nghiệm áp dụng của các quốc gia, dự kiến tác động và khuyến nghị giải pháp cho Việt Nam”, ngày 18/4/2023 do Bộ Tài chính tổ chức. Tuy nhiên, hiện nay, cả Bộ Tài chính và Chính phủ vẫn chưa công bố thông tin chính thức về lộ trình hoặc kế hoạch triển khai chính sách này tại Việt Nam.

Việc áp dụng chính sách GMT sẽ tạo ra thay đổi lớn trong môi trường kinh doanh đầu tư của Việt Nam, từ đó ảnh hưởng đến dòng FDI vào quốc gia. Khi áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu thì ưu đãi thuế không còn là tiêu chí để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài lớn, Việt Nam bị giảm lợi thế cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Trong nhiều năm qua, ưu đãi miễn, giảm thuế là công cụ quan trọng trong thu hút FDI tại Việt Nam. Việt Nam đã điều chỉnh thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp phổ thông từ mức 32%, xuống các mức 28%, 25%, 22% và hiện tại là 20%; đồng thời áp dụng nhiều chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp thuộc diện ưu đãi cả về thuế suất và thời gian thì mức thuế suất thực tế thấp hơn 15%. Nhờ đó, Việt Nam đã trở thành một nơi đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư quốc tế, đã thu hút được nhiều dự án quy mô lớn, công nghệ cao của nhiều tập đoàn lớn, các công ty đa quốc gia đến đầu tư kinh doanh với mức vốn đầu tư cam kết và thực hiện ngày càng tăng. 

Với thỏa thuận thuế tối thiểu toàn cầu, các doanh nghiệp FDI thuộc đối tượng điều chỉnh sẽ phải nộp phần thuế bổ sung về quốc gia của công ty mẹ tối cao, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn cũng như kế hoạch sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp này, đồng thời ảnh hưởng đến tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, từ đó tác động đến dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Theo Tổng cục Thuế, có khoảng 120 tập đoàn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam (với khoảng trên 1.000 doanh nghiệp) chịu ảnh hưởng của thuế tối thiểu toàn cầu nếu thuế tối thiểu toàn cầu được áp dụng từ năm 2024, sau khi loại trừ các trường hợp không phải áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu. Các nhà đầu tư không còn mặn mà với Việt Nam do Việt Nam thu bổ sung thêm thuế nội địa, lúc này các nhà đầu tư, các tập đoàn lớn sẽ quan tâm đến các lợi thế khác của mỗi quốc gia: Cơ sở hạ tầng, chi phí nhân công, hỗ trợ của Chính Phủ, chính sách pháp luật bảo vệ, thủ tục hành chính đơn giản, các chính sách ưu đãi mới…Đây lại là những điểm yếu của Việt Nam trong thu hút FDI dù đã cải thiện đáng kể trong những năm qua. 

Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng với chính sách GMT. Hiện có hai tập đoàn của Việt Nam có đầu tư lớn ra nước ngoài là Viettel và PVN. Theo đại diện Tổng cục Thuế, đối với Tập đoàn Viettel, về cơ bản, mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp tại các nước do Viettel đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp qua Viettel Global đầu tư đều trên 15%, trừ tại Viettel Đông Timor mức thuế 10% (được miễn thuế theo từng khu vực, bình quân thuế suất thực tế từ 5-7 %). Như vậy, nếu Việt Nam áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu (quy định IIR) mà Đông Timor không áp dụng quy định thuế tối thiểu nội địa bổ sung đạt chuẩn (QDMTT), sẽ có khả năng thu thêm phần thuế thu nhập doanh nghiệp chênh lệch giữa thuế tối thiểu toàn cầu so với mức thuế thực tế Viettel phải nộp tại Đông Timor. Còn đối với Tập đoàn PVN, đại diện Tổng cục Thuế cho biết các dự án đầu tư ra nước ngoài của PVN tập trung chủ yếu là các dự án trong lĩnh vực dầu khí, chịu mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc loại thuế tương tự thuế thu nhập doanh nghiệp tại các quốc gia khá cao từ 30 - 60%. Do đó, việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu hiện tại không ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài của PVN.

Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của chính sách này tại Việt Nam còn tuỳ thuộc vào mục tiêu đầu tư của các doanh nghiệp, mức độ ưu đãi thông qua biện pháp giảm thuế suất và khấu trừ thuế cũng như quy mô doanh thu hợp nhất toàn cầu. Chính sách này được cho là có cả tác động tích cực và tiêu cực đến Việt Nam. Chính vì thế, việc phân tích toàn diện tác động của chính sách thuế tối thiểu toàn cầu đến Việt Nam là cần thiết để đề xuất những kiến nghị chính sách phù hợp nhằm tiếp tục duy trì và nâng cao tính hấp dẫn của Việt Nam nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư lớn trong các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao, phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. 

Bên cạnh đó, Việt Nam cần điều chỉnh chính sách để thích ứng với bối cảnh mới. Việc điều chỉnh cần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam; thu hút các nhà đầu tư lớn, phù hợp với định hướng thu hút đầu tư nước ngoài; giữ chân các nhà đầu tư hiện hữu; chính sách hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, lãng phí; thể hiện sự tiến bộ, minh bạch trong hệ thống quản lý thuế và môi trường đầu tư kinh doanh tiếp cận chuẩn mực quốc tế; và tạo sự tin tưởng giữa doanh nghiệp và Chính phủ.  

Các kiến nghị được đưa ra như sau:

Một là, Việt Nam nên áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu này với những bước đi chủ động, có giải pháp phù hợp để hỗ trợ một phần cho các đối tượng chịu tác động, và quan trọng hơn là, cần coi đây là cơ hội để tiếp tục cải cách thuế, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư - kinh doanh - đây mới thực sự là động lực, là giải pháp căn cơ, bền vững. Cụ thể:

- Bổ sung quy định về cơ chế QDMTT. Theo quy tắc GloBE, các MNEs có doanh thu hợp nhất 750 triệu EUR trở lên phải chịu mức thuế suất thực tế 15% tại nơi hoạt động. Theo đó, các quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư - nơi tạo ra nguồn thu nhập được quyền ưu tiên thu thuế bằng cách áp dụng cơ chế QDMTT. Trong trường hợp thu nhập gộp của MNEs tại một quốc gia có mức thuế suất thực tế thấp hơn 15% thì quy tắc GloBE cho phép các quốc gia có công ty con được quyền thu thuế bổ sung đối với phần chênh lệch. Vì vậy, để đảm bảo quyền thu thuế của Việt Nam đối với các MNEs đang có hoạt động đầu tư tại Việt Nam mà có mức thuế suất thực tế tối thiểu dưới 15%, Việt Nam cần có quy định về cơ chế QDMTT theo nguyên tắc GloBE đối với các MNEs là đối tượng của thuế tối thiểu toàn cầu. 

- Giữ nguyên mức thuế suất phổ thông 20%.  So với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới thì mức thuế suất thuế TNDN hiện tại của Việt Nam (20%) cao hơn Singapore (17%), tương đương với Thái Lan (20%) và thấp hơn một số nước trong khu vực châu Á và trên thế giới (Trung Quốc 25%; Hàn Quốc 27,5%; Nhật Bản 29,74%; Malaysia 24%; Philippines 25%; Myanma 22%...). Do đó, mức thuế suất pháp định phổ thông 20% tại Việt Nam không cần thiết phải xem xét điều chỉnh. 

Hai là, Bộ Tài chính/Tổ công tác sớm đề xuất Chính phủ trình Quốc hội ban hành, điều chỉnh các chính sách về thuế, về kế toán phù hợp, cũng như phù hợp với quy định trong các Hiệp định mà Việt Nam đã cam kết trước khi chính sách thuế tối thiểu toàn cầu này có hiệu lực (dự kiến từ đầu năm 2024). Theo đó, cần nội luật hóa bằng cách ban hành qui định Thuế bổ sung tối thiểu nội địa đạt chuẩn (QDMT) như là một cơ chế phản ứng nhanh để bảo vệ quyền đánh thuế thay vì nhường quyền đánh thuế cho các quốc gia khác. Cũng theo đó, cần có hướng dẫn thực hiện (theo hướng dẫn của OECD, có điều chỉnh phù hợp hoàn cảnh của Việt Nam).

Ba là, để bù lại, bù đắp một phần cho các đối tượng sẽ chịu tác động; Việt Nam cần có chính sách, biện pháp ứng xử phù hợp đối với 2 nhóm nhà đầu tư: (i) đối với những nhà đầu tư FDI đang hoạt động tại Việt Nam (có thể có hỗ trợ về tiền thuê đất, cho phép tính một số khoản được khấu trừ thuế, đào tạo nguồn nhân lực, chi phí R & D, giải phóng mặt bằng, nhà ở công nhân...; nên áp dụng mức độ khác nhau với nhóm nhà đầu tư, loại dự án khác nhau); (ii) đối với những nhà đầu tư FDI sẽ vào Việt Nam từ đầu năm 2024 (có thể áp dụng một số chính sách hỗ trợ tương tự, thậm chí cao hơn đối với các lĩnh vực ưu tiên thu hút FDI). Một trong những vấn đề mà nhóm doanh nghiệp FDI chú ý chính là rủi ro pháp lý và các phương án để kiểm soát vấn đề khiếu kiện có thể xảy ra khi áp dụng thuế tối thiểu nội địa đạt chuẩn, do đó cần khảo cứu kinh nghiệm nghiên cứu của các nước khác như xây dựng một cơ quan chuyên làm việc với các NĐT FDI lớn để lắng nghe, giải quyết các vấn đề cho NĐT. Xác định tuỳ theo công ty có nhu cầu gì sẽ có hình thức hỗ trợ khác nhau - chỉ số carbon, đầu tư tăng thêm, vv. hoặc trợ cấp bằng tiền (theo hình thức cấn trừ thuế) cho các doanh nghiệp sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế.

Bốn là, Việt Nam cần sớm rà soát, cập nhật và thay đổi phù hợp qui định pháp luật liên quan (như Luật thuế TNDN, Luật NSNN, Luật đầu tư, Luật thuế VAT...), có thể xem xét một luật sửa nhiều luật?; và cơ chế, chính sách thu hút FDI theo hướng tập trung vào cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư - kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, nhất là các vấn đề về thể chế (lưu ý chất lượng và thực thi thể chế, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, năng suất lao động, cải cách thủ tục hành chính, giảm mạnh chi phí không chính thức...), vốn là các yếu tố cơ bản khi đưa ra các quyết định kinh doanh của nhà đầu tư, thay vì áp dụng các ưu đãi về thuế như hiện nay; tiếp tục thực thi hiệu quả những định hướng, mục tiêu, giải pháp đề ra tại Nghị quyết 50 ngày 20/08/2019 của Bộ Chính trị và Quyết định 667/QĐ-TTg ngày 2/6/2022 về Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021 - 2030. Trước mắt, khi xem xét tiếp nhận đăng ký các dự án đầu tư mới, cần hết sức lưu ý các quy định và hướng dẫn về ưu đãi thuế, trong bối cảnh Thuế tối thiểu toàn cầu dự kiến sẽ có hiệu lực từ đầu năm 2024. Ngoài ra, cần hoàn thiện chính sách khác ngoài thuế. Theo nghiên cứu của Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO, 2011), ổn định kinh tế, ổn định chính trị, chi phí nguyên liệu, thị trường nội địa, chi phí lao động, tính minh bạch của khung pháp lý tại quốc gia tiếp nhận đầu tư được các nhà đầu tư đánh giá cao hơn ưu đãi thuế. Nhiều nghiên cứu khác của các tổ chức quốc tế (WB, IMF, ADB...) cũng đã chỉ ra rằng, ưu đãi thuế chỉ là một trong các yếu tố mà các nhà đầu tư xem xét khi quyết định đầu tư. Do đó, cùng với việc xem xét sửa đổi chính sách ưu đãi thuế hợp lý hơn thì Việt Nam cũng cần nghiên cứu, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư về các chính sách ngoài thuế (như miễn, giảm tiền thuê đất, cải cách thủ tục hành chính nhằm cắt giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp...). Đồng thời, Việt Nam cần phát huy lợi thế về ổn định chính trị; kiên định, chủ động điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ kết hợp với chính sách tài khóa, vừa giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát vừa hỗ trợ doanh nghiệp và các cơ sở kinh doanh tiếp cận với nguồn vốn hợp lý cho sản xuất - kinh doanh.

Năm là, chủ động nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, tạo đòn bẩy cho nâng cao sức chống chịu và phát triển kinh tế bền vững: (i) tận dụng tốt hơn các cơ hội hội nhập để học hỏi và áp dụng công nghệ mới, chuyển giao công nghệ và thu hút vốn FDI, ODA một cách chủ động, sàng lọc vì mục tiêu chung thay vì cục bộ, địa phương; ưu tiên giải pháp gắn kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, chú trọng phát triển công nghiệp phụ trợ; (ii) đa dạng hóa thị trường, đối tác, có tính chiến lược, chọn lọc rõ ràng nhằm tận dụng cơ hội và hạn chế rủi ro tập trung, rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng; (iii) chú trọng khai thác, sử dụng hiệu quả hơn vốn tri thức, đổi mới, sáng tạo, nhất là từ đội ngũ tri thức kiều bào (gồm cả việc tăng hiệu quả kết nối các nguồn lực trong và ngoài nước); (iv) tăng cường hợp tác về thuế giữa các quốc gia nhằm chia sẻ thông tin, phối hợp hành động trong quản lý thuế nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế, chống thất thu NSNN.

Sáu là, khẩn trương ưu tiên kiện toàn và nâng cao năng lực công tác quản lý thuế, công tác cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh vì những công tác này ngày càng nhiều, ngày càng phức tạp, tinh vi, có tính hội nhập cao, xuyên biên giới, cạnh tranh (trong đó, cần ưu tiên phát triển đội ngũ cán bộ, đầu tư phát triển và ứng dụng CNTT, xây dựng cơ sở dữ liệu, công tác thực thi, phối hợp chính sách trong nước và quốc tế...).

Cuối cùng, cần xây dựng lộ trình triển khai công tác chuẩn bị từ nay đến hết năm 2023 và sau này, bao gồm các qui định nội luật hóa, quy trình – thủ tục kê khai thuế phù hợp khi áp dụng thuế suất này theo hướng dẫn phù hợp của OECD; đồng thời có kế hoạch truyền thông, tuyên truyền, tập huấn các chính sách, qui trình liên quan, cũng như quy định về giải quyết tranh chấp liên quan, có nghiên cứu bổ sung cơ chế trọng tài để giải quyết tranh chấp...v.v.

Thời gian còn rất ít, đòi hỏi rất khẩn trương, đồng bộ, đồng nhịp và vì cái chung, vì môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, trên tinh thần “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ” như Chính phủ Việt Nam đã cam kết.


Trần Hương Linh, Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế


Các tin khác

<12>