Đó là nội dung được đề cập trong bài báo “A Comparison of Growth, Structure and Diversity of Mixed Species and Monoculture Reforestation Systems in the Philippines” (So sánh sự tăng trưởng, cấu trúc và sự đa dạng sinh học giữa các phương thức trồng rừng hỗn giao và trồng rừng thuần loài ở Philippines) đã được PGS.TS. Lê Đình Hải - Phó Chủ nhiệm Khoa Kinh tế Phát triển, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN và nhóm nghiên cứu công bố trên tạp chí Journal of Sustainable Forestry - tạp chí xếp hạng Q2 thuộc danh mục ISI.
Bài báo(1) đã cung cấp tài liệu tham khảo
có giá trị cho các bên liên quan thực hiện các dự án và chương trình trồng rừng
thành công ở Philippines nói riêng và các quốc gia nhiệt đới đang phát triển
nói chung, trong đó có Việt Nam.
Trong thế kỷ qua, rừng nhiệt đới đã bị suy giảm với
tốc độ nhanh chóng với 350 triệu ha rừng bị chặt phá và 500 triệu ha rừng bị
suy thoái. Philippines là một quốc gia nhiệt đới đang phát triển đã trải qua nạn
phá rừng trên diện rộng trong những thập kỷ gần đây và có tới 59% (9,3 triệu
ha) đất rừng chính thức của nước này hiện không có rừng, là đồng cỏ, cây bụi hoặc
đang được canh tác nông nghiệp. Việc mất nhanh chóng diện tích rừng nhiệt đới
đã dẫn đến mất và suy giảm đa dạng sinh học và các tác động nghiêm trọng đến
môi trường, xã hội và kinh tế do sinh kế của người dân địa phương phụ thuộc rất
lớn vào các sản phẩm và các dịch vụ hệ sinh thái do rừng cung cấp. Để giải quyết
những tác động tiêu cực này, các chương trình trồng rừng quy mô lớn đã được thực
hiện ở nhiều quốc gia đang phát triển, ví dụ như chiến dịch trồng một tỷ cây của
Liên hợp quốc. Ngày càng có nhiều nỗ lực để tái trồng rừng trên những vùng đất
bị chặt phá nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường. Đến nay, phương
thức rừng trồng chủ yếu là trồng rừng thuần loài. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều
lời kêu gọi áp dụng phương pháp trồng rừng hỗn giao, mặc dù có ít bằng chứng ủng
hộ việc trồng rừng hỗn giao là một cách tiếp cận tốt hơn hoặc cả hai mục tiêu
kinh tế và môi trường.
Các nghiên cứu gần đây đã nhấn mạnh những lợi thế tiềm
năng của trồng rừng hỗn giao. Nhiều tác giả đang ủng hộ việc mở rộng phương thức
trồng rừng hỗn giao này. Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng khi các khu vực
trồng rừng hỗn giao được thiết kế thích hợp, chúng sẽ mang lại một số lợi thế
tiềm năng, chẳng hạn như khả năng phục hồi các khu vực bị suy thoái bằng cách cải
thiện chu kỳ dinh dưỡng và độ phì của đất, tăng cường đa dạng sinh học, nâng ca
năng suất trồng rừng, và có khả năng chống chọi tốt hơn với sâu bệnh. Ngoài ra,
rừng trồng hỗn giao có thể đạt được sự đa dạng hóa sản phẩm cao.
Mặc dù trồng rừng thuần loài và rừng trồng hỗn giao
mang lại những lợi ích và có những hạn chế tương ứng, có rất ít các nghiên cứu
so sánh hiệu quả của các phương thức trồng rừng khác nhau. Ở đây, tác giả bài
báo so sánh ba phương pháp trồng rừng được sử dụng ở Philippines, đó là rừng trồng
thuần loài, rừng trồng hỗn giao cây nhập nội và rừng trồng hỗn giao cây bản địa.
Đối với mỗi cách tiếp cận trồng rừng, nhóm tác giả đo lường hiệu suất sinh trưởng,
cấu trúc và sự đa dạng của loài cây để đánh giá khả năng tương đối của từng
cách tiếp cận để mang lại lợi ích chung của việc sản xuất gỗ và bảo tồn đa dạng
sinh học. Kết quả của nghiên cứu có thể cung cấp cơ sở để lựa chọn các phương
pháp tiếp cận trồng rừng phù hợp nhằm đạt được các mục tiêu quản lý rừng bền vững
tại khu vực nghiên cứu nói riêng và ở các nước đang phát triển nhiệt đới nói
chung.
Trong nghiên cứu, nhóm tác giả đã thu thập dữ liệu từ
các trang trại trồng rừng của tư nhân và các dự án trồng rừng. Tổng cộng, 168
khoảnh rừng (251 ô tiêu chuẩn) trên đảo Leyte, Philippines đã được khảo sát. Dựa
trên số liệu thu thập, nhóm tác giả đã so sánh sự tăng trưởng, cấu trúc và tính
đa dạng sinh học của rừng trồng thuần loài và hỗn giao thông qua các chỉ số được
phân tích bằng cách sử dụng các mô hình hiệu ứng hỗn hợp (Mixed Effect Model)
được phát triển trong phần mềm IBM SPSS Statistics 20 (2011). Nhóm tác giả đã lập
mô hình các chỉ số dưới dạng một hàm của phương thức trồng rừng (Trồng rừng thuần
loài - MONO, Trồng rừng hỗn giao nhập nội - MIS, Trồng rừng hỗn giao bản địa -
MNS) và các cấp tuổi của rừng (≤10 năm, 11-19 năm và ≥20 năm) (hiệu ứng cố định
- Fixed Effect) với cấu trúc ảnh hưởng ngẫu nhiên (Radom Effect) của các khu vực
trồng rừng. Nhóm tác giả cũng tiến hành so sánh theo cặp trên các mô hình hiệu ứng
hỗn hợp để xác định sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tăng trưởng rừng, cấu
trúc rừng và đa dạng loài cây giữa ba phương thức trồng rừng (Trồng rừng thuần
loài - MONO, Trồng rừng hỗn giao cây nhập nội - MIS, Trồng rừng hỗn giao cây bản
địa - MNS) ở ba cấp tuổi (≤10 năm, 11-19 năm và ≥20 năm). Các chỉ số về cấu
trúc rừng, đa dạng loài cây, và tăng trưởng của rừng cũng được so sánh đối chứng
với rừng tự nhiên được phân bố trên địa bàn nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng trồng rừng hỗn
giao cây nhập nội cho kết quả tăng trưởng tốt hơn so với rừng trồng thuần loài cây
nhập nội và chỉ số đa dạng loài cây cũng tốt hơn ở cả quy mô ô tiêu chuẩn và quy
mô cảnh quan. Kết quả nghiên cứu cho thấy phương pháp trồng rừng hỗn giao cây nhập
nội hoặc cây bản địa có thể mang lại lợi ích vượt trội so với việc trồng rừng thuần
loài. Trồng rừng hỗn giao cây cây nhập nội cho năng suất cao phù hợp nhất với
chức năng trồng rừng sản xuất và cung cấp gỗ, trong khi trồng rừng hỗn giao cây
bản địa phù hợp nhất với các chức năng trồng rừng với mục đích đa dạng sinh học.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng việc lựa chọn các loại
hình hoặc phương thức trồng rừng phù hợp là một yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến
sự thành công của các dự án trồng rừng ở Philippines. Mặc dù vẫn còn một số hạn
chế trong nghiên cứu như quy mô mẫu khảo sát không đồng đều cho các phương thức
trồng rừng, thiếu phân tích mối tương quan giữa tăng trưởng rừng, cấu trúc rừng,
đa dạng sinh học và các yếu tố ảnh hưởng của chúng, kết quả nghiên cứu của nhóm
tác giả có thể cung cấp tài liệu tham khảo có giá trị cho các bên liên quan thực
hiện các dự án và chương trình trồng rừng thành công ở Philippines nói riêng và
các quốc gia nhiệt đới đang phát triển nói chung, trong đó có Việt Nam. Sự
thành công của các dự án trồng rừng có vai trò quan trọng trong việc nâng cao độ
che phủ của rừng, giảm thiểu tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu.
____________
(1) Bạn đọc có thể đọc toàn văn công bố tại
link:
https://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/10549811.2020.1767145
Vài nét về tác giả bài báo:
PGS.TS. Lê Đình Hải, Phó Chủ nhiệm
Khoa Kinh tế Phát triển, Trường ĐHKT - ĐHQGHN, tốt nghiệp đại học tại trường
Đại học Lâm nghiệp với bằng kỹ sư lâm nghiệp chuyên ngành Quản lý kinh tế năm
1996, tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Quản lý môi trường và Phát triển tại
trường Đại học Quốc gia Australia (ANU) năm 2006; tốt nghiệp tiến sĩ Kinh tế
Tài nguyên và Môi trường tại trường Đại học Tổng hợp Queensland (UQ) -
Australia năm 2013.
Đến nay, PGS. Lê Đình Hải đã công bố
được 8 bài báo trên các tạp chí quốc tế uy tín như Gobal Environmental Change,
Rural Studies, Ecological Modelling, Smallscale Forestry, Sustainable Forestry
thuộc danh mục SCI, SSCI, SCIE. PGS. Lê Đình Hải là giảng viên với 25 năm kinh
nghiệm trong đào tạo và nghiên cứu khoa học trong các lĩnh vực: Kinh tế và
chính sách nông lâm nghiệp, kinh tế và chính sách tài nguyên môi trường, Quản
lý kinh tế, phát triển sinh kế bền vững, giảm nghèo bền vững. Cá nhân PGS. Đình
Hải có thế mạnh trong sử dụng các phần mềm thống kê chuyên ngành như STATA, SPSS,
NETICA cho việc phân tích số liệu đặc biệt là ứng dụng mô hình hồi qui tuyến
tính, mô hình logit nhị phân (Binary Logistic Regression), mô hình phân tích
nhân tố khám phá (EFA) và mô hình cấu trúc SEM; Mô hình hóa như Mô hình mạng
Baysian Network. Những mô hình định lượng này đã được ứng dụng trong NCKH và
công bố nhiều bài báo khoa học trong nước và quốc tế. Ngoài ra, PGS. Lê Đình
Hải tham gia hướng dẫn nhiều nhóm sinh viên NCKH đạt giải các cấp.