a.
Một mối quan hệ lâu dài tồn tại giữa xuất khẩu và GDP của Việt Nam và
cho thấy sự đóng góp dài hạn đáng kể của xuất khẩu trong GDP thực tế.
Một mối quan hệ ngắn hạn cũng tồn tại giữa xuất khẩu và GDP.
b.
Nông nghiệp, khai thác, thực phẩm và đồ uống, dệt may, giày dép, máy
tính và điện tử, máy móc, sản xuất chưa được phân loại, thương mại và
bán lẻ, khách sạn và nhà hàng, và vận chuyển và lưu trữ đã đóng góp đáng
kể vào giá trị gia tăng trong xuất khẩu của Việt Nam.
c. Ngoại
trừ nông nghiệp, khai thác, khách sạn và nhà hàng, các ngành công nghiệp
còn lại cũng có những đóng góp đáng kể giá trị gia tăng trong xuất khẩu
ra nước ngoài của Việt Nam. Hầu hết các ngành công nghiệp tích cực
trong nhập khẩu để xuất khẩu (I2E) là máy tính, điện tử, dệt may, giày
dép, thực phẩm và đồ uống, và máy móc điện.
d. Trung Quốc, Nhật
Bản và Hàn Quốc là các nhà cung cấp sản phẩm đầu vào chính cũng như là
những người mua các sản phẩm trung gian của Việt Nam.
e. Nông
nghiệp, thực phẩm, đồ uống, dệt may và giày dép đã cho thấy lợi thế so
sánh trên tất cả sáu thị trường đang xem xét (Thế giới, Đông Á, ASEAN,
EU, NAFTA và BRIS) nhất quán trong giai đoạn 1995-2011.
f. Lĩnh
vực khai khoáng rất cạnh tranh ở Đông Á, Liên minh châu Âu và NAFTA; sản
phẩm gỗ trên thế giới, Đông Á, EU và NAFTA; khoáng sản phi kim loại chỉ
trong NAFTA; máy tính và thiết bị điện tử chỉ trong BRIS; thương mại
bán buôn và bán lẻ ngoài thị trường ASEAN; khách sạn và nhà hàng trên
thế giới, Đông Á, EU và BRIS. Ngoài ra, đồ nội thất rơi vào sản xuất
không được phân loại ở nơi khác cũng cho thấy tiềm năng lớn hơn trong
giai đoạn gần đây về giá trị gia tăng xuất khẩu trong nước.
g.
Sự phóng đại được tìm thấy trong các giá trị xuất khẩu gộp của vốn nhân
lực và các ngành công nghiệp thâm dụng công nghệ (ví dụ: máy móc và
thiết bị, máy tính, điện tử, máy móc điện, vận tải, v.v.). Tuy nhiên,
tổng xuất khẩu được tìm thấy phù hợp với xuất khẩu giá trị gia tăng nội
địa cho lao động có tay nghề thấp (ví dụ: thực phẩm và đồ uống, dệt may
và giày dép) và các ngành dịch vụ (ví dụ: thương mại, khách sạn và nhà
hàng).
h. Sự tham gia của Việt Nam vào Chuỗi giá trị toàn cầu
(GVC) đã tăng đáng kể, chủ yếu là do sự tham gia lạc hậu vào máy tính và
điện tử, dệt may, giày dép, thực phẩm và đồ uống, máy móc điện, kim
loại cơ bản, thương mại bán buôn và bán lẻ, ngành kho vận.
i.
Trong số bốn mô hình của chiến lược tăng trưởng dẫn đầu xuất khẩu vơi Mô
hình Đức và Nhật Bản, mô hình của các Con Hổ châu Á (các nước có nền
kinh tế mới nổi), mô hình Mexico và mô hình Trung Quốc, Việt Nam được
tìm thấy gần giống với mô hình Mexico, theo đó, nó đã biến mình thành
nền tảng sản xuất xuất khẩu cho các quốc gia nước ngoài bằng cách đàn áp
tiền lương, thay vì phát triển năng lực công nghiệp bản địa.