New Trang tin
 Search

Kinh tế số và chiến lược phát triển kinh tế số ở Việt Nam

Trong những năm qua, dưới sự tác động của nhiều yếu tố, công nghệ số đã có sự phát triển mạnh mẽ. Sự phát triển của công nghệ số đã hình thành nên hệ sinh thái công nghệ số có sự lệ thuộc và tương tác lẫn nhau, đồng thời trở thành lực lượng quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.


Trong bối cảnh đó, Hội thảo “Kinh tế số và chiến lược phát triển kinh tế số ở Việt Nam” do Trung tâm Dữ liệu và Phân tích Kinh tế - Xã hội (CSEAD) trực thuộc Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN tổ chức ngày 29/12/2022 hướng tới mục đích: (1) Phân tích, thảo luận các vấn đề về kinh tế số, bao gồm đi sâu làm rõ khái niệm, đặc điểm, hình thức cũng những thách thức của nền kinh tế số ở Việt Nam; (2) Trao đổi học thuật, chia sẻ kinh nghiệm chuyên môn, thảo luận về định hướng phát triển kinh tế số tại Việt Nam; (3) Đánh giá thành tựu và đặt ra các vấn đề, gợi mở các giải pháp, hàm ý chính sách phát triển kinh tế số trước những thách thức. 

Khẳng định tầm quan trọng của chuyển đổi số, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách mang tính chiến lược để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số ở Việt Nam như: Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị khóa XII về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ; Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số, xã hội số đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 theo Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ.

Là một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển với tốc độ nhanh nhờ vào định hướng phát triển nền kinh tế số, Việt Nam đứng thứ 22/60 về tốc độ số hóa và thứ 48/60 quốc gia có tốc độ chuyển đổi kinh tế số nhanh trên thế giới (năm 2020). Sự dịch chuyển và thay đổi theo hướng số hóa nhanh giúp Việt Nam phát triển kinh tế số ngày càng mạnh. Dịch COVDI-19 tạo thêm cú hích cộng hưởng để hành trình chuyển đổi số diễn ra nhanh hơn. Phát triển kinh tế số được xem là sự thay đổi thông minh, là động lực tăng trưởng mới của Việt Nam. Việt Nam là quốc gia có tỷ trọng tổng giá trị hàng hóa kinh tế số lớn nhất trong khu vực, đạt 4% GDP; đứng thứ 2 là Singapore 3,2% GDP; Indonesia 2,9% GDP; Thái Lan và Malaysia 2,7% GDP; Philippines 1,6% GDP (năm 2020). Đối với quy mô nền kinh tế số, Việt Nam xếp thứ 3 trong khu vực, đạt giá trị 9 tỷ USD (sau Indonesia và Thái Lan).

Tại Hội thảo, TS. Trần Quý - Viện trưởng Viện Phát triển Kinh tế số Việt Nam đã tập trung làm rõ khái niệm kinh tế số và chiến lược phát triển kinh tế số ở Việt Nam. Theo TS. Trần Quý, kinh tế số là hoạt động kinh tế sử dụng công nghệ số và dữ liệu số làm yếu tố đầu vào chính, sử dụng môi trường số làm không gian hoạt động chính, sử dụng công nghệ thông tin - viễn thông để tăng năng suất lao động, đổi mới mô hình kinh doanh và tối ưu hóa cấu trúc nền kinh tế. Để phát triển kinh tế số ở Việt Nam, cần tập trung vào một số nhóm giải pháp sau:

Thứ nhất, đổi mới tư duy lãnh đạo quản lý và năng lực điều hành kinh tế. Rào cản lớn nhất để chuyển đổi số không phải là vốn, công nghệ mà chính là nhận thức của nhà lãnh đạo. Việc chuyển sang nền tảng số đồng nghĩa với chuyển đổi mô hình kinh doanh, chuyển đổi về con người. Trong đó, sự chuyển đổi về con người là quan trọng nhất. Chuyển đổi số tạo ra một hệ sinh thái thống nhất, có sự kết hợp chặt chẽ giữa con người và hệ thống công nghệ. Do đó, việc chuyển đổi số cũng cần kèm theo sự phát triển năng lực của lãnh đạo. Để số hóa nền kinh tế thành công, chất lượng bộ máy quản trị quốc gia là một trong những yếu tố then chốt, có ý nghĩa quyết định. Cần tuyên truyền nâng cao nhận thức xã hội về kinh số để có sự chuẩn bị tốt nhất, thích ứng xu hướng phát triển kinh tế số. Nhận thức thông tin đúng về bản chất, xu hướng phát triển kinh tế số giúp nắm bắt các cơ hội cũng như bảo đảm tính cạnh tranh quốc tế trong kinh tế số. Mỗi cá nhân và nhà lãnh đạo cần tự trang bị và nâng cao kỹ năng sử dụng công nghệ số giúp phục vụ công việc trong tương lai và tự biết bảo vệ trước các nguy cơ bị đe dọa lấy cắp thông tin cá nhân trực tuyến.

 Thứ hai, hoàn thiện thể chế, tạo khuôn khổ pháp luật đẩy mạnh phát triển kinh tế số. Chuyển đổi số, phát triển kinh tế số không phải là cuộc cách mạng về công nghệ mà là cuộc cách mạng về thể chế. Thể chế cần đi trước một bước và được điều chỉnh linh hoạt để chấp nhận những cái mới: công nghệ mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới, mô hình mới. Chỉ có đổi mới sáng tạo, Việt Nam mới thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Thể chế, chính sách là yếu tố quyết định chứ không phải là công nghệ. Khung thể chế và pháp lý đóng vai trò quan trọng trong quá trình số hóa. Những chính sách hợp lý về bản quyền, quyền sở hữu trí tuệ và tự do hóa thị trường nghiên cứu khoa học sẽ tạo ra những bước đột phá cho Việt Nam trong quá trình chuyển đổi số. Xây dựng nền tảng, thể chế cho các mô hình kinh doanh kinh tế số, trong đó sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật cho các ngành đang có nhiều mô hình kinh doanh mới như thương mại điện tử, tài chính số, ngân hàng số. Cải cách thể chế để thu hút đầu tư công nghệ số trong các lĩnh vực đầu tư mạo hiểm theo hướng tạo thuận lợi tối đa cho các hoạt động góp vốn, mua cổ phần, mua, bán, sáp nhập doanh nghiệp công nghệ số. Sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy định pháp luật về công nghệ thông tin và truyền thông. Xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, điều chỉnh các mối quan hệ mới phát sinh trong quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.

 Thứ ba, đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số. Phát triển hệ thống hạ tầng số quốc gia đồng bộ, rộng khắp đảm bảo đáp ứng yêu cầu kết nối, lưu trữ, xử lý dữ liệu, thông tin, các chức năng về giám sát, bảo đảm an ninh, an toàn mạng. Xây dựng, phát triển hạ tầng băng thông rộng chất lượng cao. Nâng cấp mạng di động 4G, phát triển mạng di động 5G để có thể theo kịp xu hướng thế giới. Công nghệ 5G sẽ tạo cơ sở hạ tầng tốt cho việc kết nối theo xu hướng IoT, mở ra nhiều cơ hội kinh doanh lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME). Mở rộng kết nối Internet trong nước, khu vực và quốc tế; chuyển đổi toàn bộ mạng Internet Việt Nam sang ứng dụng giao thức Internet thế hệ mới. Triển khai việc tích hợp cảm biến và ứng dụng công nghệ số vào hệ thống hạ tầng giao thông, điện, nước, quản lý đô thị. Xây dựng hệ thống hạ tầng thanh toán số quốc gia đồng bộ, thống nhất để thúc đẩy việc thanh toán không dùng tiền mặt. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế có đủ năng lực tham gia xây dựng hạ tầng kỹ thuật số. Trong chiến lược hạ tầng số, Việt Nam đặt mục tiêu xếp hạng Top 30 thế giới trước năm 2025. 

 Thứ tư, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin phục vụ cho chuyển đổi kinh tế số. Bên cạnh chú trọng nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số, nguồn nhân lực công nghệ thông tin đóng vai trò hết sức quan trọng. Chương trình đào tạo nhân lực công nghệ thông tin cần hướng đến đẩy nhanh xã hội hóa giáo dục công nghệ thông tin. Cập nhật giáo trình đào tạo công nghệ thông tin gắn với các xu thế công nghệ mới như IoT, AI, công nghệ robot. Phát triển nguồn nhân lực theo hướng tăng cường năng lực tiếp cận, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường công nghệ liên tục thay đổi và phát triển. Nghiên cứu nội dung, phương pháp đào tạo nhằm xây dựng nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ sản xuất mới; tập trung vào thúc đẩy đào tạo về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học, ngoại ngữ, tin học; xây dựng chương trình đào tạo, đào tạo lại kiến thức nghề nghiệp; cung cấp khả năng tự học tập một cách linh hoạt, phù hợp đối với từng tổ chức, cá nhân… Có chính sách kết nối với cộng đồng khoa học, công nghệ trong nước với nước ngoài, đặc biệt với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.

 Thứ năm, bảo đảm an toàn, an ninh mạng. Việt Nam xếp thứ 25/194 quốc gia về an toàn, an ninh mạng toàn cầu năm 2020, tăng so với thứ hạng 50 trên thế giới (năm 2018). Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại, băng thông đủ rộng để vượt qua các cuộc tấn công gây nghẽn mạng, thành lập hệ thống máy lưu trữ dự phòng để chuyển hướng dữ liệu trước các cuộc tấn công và phục hồi sau tấn công mạng. Thường xuyên rà soát, phát hiện, khắc phục lỗ hổng bảo mật trên toàn hệ thống, bổ sung thiết bị, phần mềm chuyên dụng có khả năng kiểm tra, kiểm soát an ninh, an toàn thông tin trên môi trường mạng viễn thông, Internet, tần số vô tuyến điện… Xây dựng, triển khai thực hiện các giải pháp kỹ thuật nhằm kiểm tra, phát hiện các nguy cơ gây mất an ninh thông tin. Đảm bảo xử lý kịp thời các nguy cơ gây mất an ninh, đe dọa gây mất an ninh thông tin ở Việt Nam.

Thứ sáu, tăng cường hợp tác quốc tế về công nghệ số và kinh tế số. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và áp dụng hiệu quả công nghệ số là một trong những giải pháp quan trọng, góp phần tạo động lực mới cho tăng trưởng và phục hồi kinh tế, bảo đảm phát triển bền vững, bao trùm và toàn diện. Đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực số hóa là một nhân tố góp phần xây dựng môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển giữa các quốc gia. Việt Nam đã tham gia xây dựng nhiều quy tắc mới về thương mại điện tử trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) như Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP, 2020) và Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA, 2010). Việt Nam hợp tác với các nước để xây dựng khung pháp lý phù hợp, giúp kinh tế số phát triển đúng hướng, hiệu quả và hài hòa với lợi ích chung của toàn xã hội. Tăng cường kết nối cộng đồng khoa học công nghệ giữa các quốc gia, khu vực để nâng cao trình độ kỹ năng số. Tận dụng các cam kết trong các FTA mà Việt Nam đã ký với các nước đối tác để khôi phục, mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư.

Cũng tại hội thảo, TS. Vũ Xuân Nam - Trưởng Khoa Hệ thống Thông tin Kinh tế, Trường Đại học Công nghệ Thông tin và Truyền thông - Đại học Thái Nguyên đã trình bày tham luận về doanh nghiệp nhỏ và vừa trong xu thế chuyển đổi số. Theo báo cáo của Cisco (2020), 72% SME ở Việt Nam đang có những bước đi mới trên con đường số hóa. Theo TS. Vũ Xuân Nam, mặc dù số lượng SME thực hiện chuyển đổi số ở VIệt Nam là khá cao nhưng họ vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn trong quá trình chuyển đổi số. Một số khó khăn cần tập trung giải quyết trong thời gian tới bao gồm:

Thứ nhất, giải quyết vấn đề hạn chế trong chi phí đầu tư vào công nghệ số: Thông thường, các dự án đầu tư cho công nghệ sẽ tốn nhiều chi phí của doanh nghiệp, từ việc đầu tư công cụ, đổi mới quy trình, xây dựng hệ thống... Vì vậy, khi việc trang bị chưa rõ kết quả và lợi ích thì chủ doanh nghiệp vẫn còn phân vân để đầu tư.

Thứ hai, giải quyết vấn đề thiếu hụt thông tin về các giải pháp chuyển đổi số: Hiện nay các giải pháp chuyển đổi số xuất hiện trên thị trường ngày càng đa dạng và phong phú. Điều đó đồng nghĩa với việc tìm ra giải pháp phù hợp với điều kiện, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của doanh nghiệp càng trở nên khó chọn lọc.

Thứ ba, giải quyết các thách thức trong việc thay đổi văn hóa tổ chức: Khi triển khai các dự án chuyển đổi số, doanh nghiệp đồng thời phải đối mặt với việc thay đổi lại quy trình hoạt động, cơ cấu tổ chức, thói quen và cách làm việc cũ.

Thứ tư, nâng cao nhận thức trong chuyển đổi số: Doanh nghiệp chưa có nhiều kinh nghiệm và kiến thức về chuyển đổi số dẫn đến việc áp dụng công nghệ và lựa chọn giải pháp chuyển đổi còn chưa hiệu quả. Các lãnh đạo và nhà quản lý cần nâng cao kiến thức về chuyển đổi số để loại bỏ rào cản này.

Thứ năm, cho phép nhân viên sử dụng dữ liệu: Việc trích xuất và khai thác thông tin doanh nghiệp giúp nhân viên nắm rõ hơn các hoạt động, khách hàng và đối tác, từ đó thúc đẩy trao đổi thông tin trong các bộ phận, cải thiện mối quan hệ khách hàng với doanh nghiệp và đạt hiệu suất công việc cao hơn.

Thứ sáu, ứng dụng giải pháp công nghệ phù hợp: Với các SME thì việc lựa chọn một ứng dụng công nghệ phù hợp là yếu tố cần thiết để đảm bảo năng suất công việc, lợi nhuận doanh nghiệp mà vẫn tiết kiệm chi phí đầu tư.

Các diễn giả chụp ảnh cùng thành viên tham gia Hội thảo

Hội thảo đã trở thành diễn đàn để các diễn giả và thành viên tham dự trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm liên quan đến các vấn đề về kinh tế số và chiến lược phát triển kinh tế số ở Việt Nam. Các hàm ý, giải pháp đưa ra tại Hội thảo nhằm định hướng chính sách phát triển kinh tế số trước những thách thức, từ đó tạo động lực tăng trưởng mới cho Việt Nam trong thời gian tới


Trường Đại học Kinh tế

FullName Email
Address Security code BSKKBL
Content