Thực tiễn các vấn đề và mối quan hệ giữa chính trị, kinh tế và xã hội không ngừng biến đổi đòi hỏi sự tiếp thu, cập nhật thường xuyên thực trạng và những khía cạnh mới, phù hợp với xu thế vận động, phát triển của thế giới. Từ đó, xây dựng cơ sở nhằm đổi mới lý luận về kinh tế chính trị. Tại Việt Nam, một số mối quan hệ lớn liên quan tới các quy luật hoạt động trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhận thức đúng và xử lý phù hợp các quy luật này sẽ góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Do đó, nghiên cứu và vận dụng các quy luật này là yêu cầu cấp thiết cả trước mắt và lâu dài.
Trong những năm qua, kinh tế chính trị học ở Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng cho lý luận của Đảng nói chung, làm nền tảng cho các quyết sách của Đảng, góp phần đạt được những thành tựu của đất nước trong công cuộc Đổi mới. Việc nghiên cứu và giảng dạy kinh tế chính trị ở Việt Nam hiện nay được thực hiện theo hướng kết hợp những định hướng cơ bản, mang tính truyền thống với các xu hướng vận động chủ yếu trên thế giới. Những mối liên hệ và đứt gãy giữa tính liên tục, kế thừa truyền thống với tính mới, cập nhật đương đại trong kinh tế chính trị đòi hỏi sự tăng cường trong đối thoại khoa học về các vấn đề đương đại và truyền thống. Việc tổ chức những không gian thảo luận, đối thoại cởi mở là tiền đề quan trọng, thúc đẩy sự phát triển của khoa học kinh tế chính trị tại Việt Nam.
Trật tự kinh tế thế giới mới
Cơ sở lý thuyết và đánh giá thực tiễn trong thời gian qua cho thấy những bất ổn về tính bền vững của một trật tự kinh tế tự do thế giới dựa trên hợp tác quốc tế đa phương. Một trật tự kinh tế thế giới bền vững đòi hỏi sự hợp tác giữa các quốc gia trong việc thực hiện các chính sách khác nhau, đòi hỏi sự hợp tác ở cấp độ toàn cầu. Điều này đòi hỏi việc theo đuổi các chính sách vì lợi ích của một quốc gia hoặc các quốc gia trong bất kỳ lĩnh vực chính sách cụ thể nào không được diễn ra theo cách gây nguy hiểm cho sự hợp tác trong các lĩnh vực chính sách khác nhau.
Trật tự kinh tế thế giới gần đây trở nên phức tạp và khó định hình hơn trước rất nhiều. Sự trỗi dậy của Trung Quốc đã làm đảo lộn vai trò lãnh đạo trong một trật tự thế giới do Mỹ lãnh đạo. Điều này được xem như một cú sốc đối với trật tự kinh tế hiện nay. Cho dù thế giới đó là đơn cực hay đa cực, thì giờ đây quyền lực toàn cầu nằm trong tay (ít nhất) hai quốc gia thống trị. Hơn nữa, lợi ích của các quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia ở Nam bán cầu, đang ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Ngoài sự phức tạp của các tương tác quốc tế hiện hữu, việc khó định hình chính là trạng thái “luôn thay đổi” và “chuyển tiếp” - mô tả đặc điểm chính của trật tự kinh tế toàn cầu hiện nay. Điều này ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế và chính trị quốc tế cũng như hành vi của các quốc gia trong bước chuyển hướng tới một trật tự kinh tế toàn cầu mới. Sự bất định của trật tự kinh tế thế giới hiện nay thể hiện qua một số điểm chính. Bao gồm (i) sự bất định trong việc xác định thế giới đơn cực hay đa cực, xuất phát từ sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước dẫn đầu và sự linh hoạt của các nước theo sau; (ii) thế giới dường như không chỉ bị chia đôi mà còn bị chia cắt làm nhiều khối, như không chỉ khối Mỹ và khối Trung Quốc mà còn cả khối châu Âu và (iii) xuất hiện những mô phỏng và dự báo nằm ngoài sự tưởng tượng thông thường. Ví dụ Kotlikoff và cộng sự (2023) đã mô phỏng mô hình tương lai cho nền kinh tế thế giới rất khác với thế giới hiện tại. Theo đó, đến năm 2100, Trung Quốc và Ấn Độ sẽ trở thành hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, với tỷ trọng lần lượt là 27,0% và 16,2% GDP thế giới. Tại thời điểm này, tỷ trọng trong sản lượng thế giới của Mỹ và Tây Âu (bao gồm cả Anh) được dự đoán là 12,3% và 11,9%. Ngược lại, vào năm 2017 (là ngày bắt đầu hoạt động lập mô hình của họ), Mỹ và Trung Quốc mỗi nước chiếm khoảng 16% GDP thế giới, tụt hậu so với Tây Âu (cộng với Anh) chiếm gần 20%. Ấn Độ chỉ sản xuất được 7,0% sản lượng thế giới.
Một số yếu tố mới trong thế giới đương đại
Sự phát triển bùng nổ của lực lượng sản xuất và biến đổi quan hệ sản xuất trên quy mô toàn cầu. Cách mạng công nghiệp 4.0 dựa trên tiến bộ khoa học công nghệ như công nghệ thông tin (IT), kết nối internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud computing), trí tuệ nhân tạo (AI) biến quá trình sản xuất trở nên “thông minh”, tự động hóa mọi khâu của quá trình sản xuất-kinh doanh, hình thành nên kinh tế số. Đối tượng của sản xuất và sở hữu thay đổi theo sự phát triển của công nghệ đã làm thay đổi căn bản cách thức sản xuất của toàn bộ thế giới, kéo theo đó quan hệ sản xuất đang dần biến đổi thích ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trình độ của người lao động có xu hướng ngày càng cao, tỷ trọng “công nhân áo xanh” (Blue Collar Worker) giảm dần, thay vào đó là tỷ trọng “công nhân áo trắng” (White Collar Worker) hay “công nhân tri thức” (Knowledge Worker) ngày càng tăng. Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng tác động mạnh mẽ tới việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Trong các nhóm chỉ số nền tảng để đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia đều dựa trên trụ cột đào tạo và giáo dục bậc cao và trụ cột về đổi mới công nghệ.
Hoàn thiện và phát triển các thể chế, công cụ điều tiết trong từng quốc gia và trên toàn cầu. Toàn cầu hóa với tự do kinh tế được dẫn đắt, tác động của việc ứng dụng thành tựu Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang ảnh hưởng đến các thiết chế chính trị lẫn kinh tế của từng quốc gia riêng biệt cũng như toàn bộ các quốc gia trên thế giới. Xét về khía cạnh thể chể chính trị, quá trình toàn cầu hóa, sự hình thành các liên minh về kinh tế và chính trị đã hình thành cấu trúc quyền lực dần xóa nhòa ranh giới biên giới lãnh thổ, đồng thời quyền lực của từng quốc gia bị thu hẹp và được trao cho một chủ thể siêu quyền lực. Xét về khía cạnh tác động đến thể chế kinh tế, toàn cầu hóa và tự do kinh tế đã thúc đẩy phát triển thị trường tự do, mở cửa trên bình diện toàn cầu, các quốc gia trở nên phụ thuộc chặt chẽ vào nhau, thị trường của từng nước gắn kết chặt chẽ với nhau tạo thành hệ thống chỉnh thể thống nhất thị trường thế giới thông qua các chuỗi giá trị toàn cầu. Sự tiến bộ trong sự vận hành của thị trường thế giới tạo điều kiện cho các quốc gia ở trình độ phát triển thấp gia tăng tính minh bạch trong quản lý, điều tiết nền kinh tế quốc nội. Nền kinh tế mở, mang tính toàn cầu này, không còn bị trói buộc bởi các quốc gia mang thể chế khác biệt mà cần thiết lập thể chế toàn cầu tương ứng. Do đó, sự can thiệp của mỗi quốc gia thành viên đối với nền kinh tế của mình đều phải dựa trên hệ thống luật lệ, công ước và hiệp định mà quốc gia đó ký kết khi tham gia vào các tổ chức quốc tế. Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia, chu chuyển liên tục của các luồng tài chính, sức ép cạnh tranh, vai trò của các tổ chức phi chính phủ, cùng những quy tắc, luật lệ của các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế và khu vực đang tạo ra những tác động, ảnh hưởng làm thay đổi vị thế và vai trò của từng nhà nước quốc gia.
Những vấn đề an ninh phi truyền thống đòi hỏi sự phối hợp, hợp tác theo nhiều cơ chế song phương, đa phương. Phạm vi và nội dung của an ninh phi truyền thống bao phủ rất nhiều lĩnh vực đời sống xã hội gây ra những bất ổn về mặt xã hội, môi trường, an ninh của các quốc gia. Đây được coi là hệ quả tất yếu của quá trình toàn cầu hóa diễn ra cùng với dòng chảy của vốn luân chuyển khắp thế giới qua các thị trường và hàng hóa công nghiệp làm cho các quốc gia ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Theo đó, các quốc gia cũng phải đối mặt với các vấn đề an ninh phi truyền thống tương tự nhau nhưng ở những mức độ khác nhau, dần có những tác động mang tính quốc tế như: buôn lậu, buôn bán người, vận chuyển trái phép vũ khí, ma túy, cướp biển, khủng bố quốc tế, biến đổi khí hậu, ô nhiễmmôi trường, dịch bệnh, tội phạm kinh tế quốc tế, nhất là tội phạm công nghệ cao… Những vấn đề đó diễn ra ra trên bình diện toàn cầu, tác độngđến mọi chủ thể, mọi quốc gia, gây ra những thiệt hại về mặt kinh tế, xã hội hết sức to lớn. Với những vấn đề mang tính toàn cầu này, không một quốc gia riêng lẻ nào có thể đủ sức giải quyết. Nói cách khác, chỉ có cơ chế phối hợp trên cơ sở hợp tác mang tính chất nhà nước khu vực/ toàn cầu mới đủ nguồn lực và công cụ quản lý hiệu quả có thể khắc phục, giảm thiểu được thiệt hại gây ra.
Một số vấn đề kinh tế chính trị cấp bách tại Việt Nam
Các vấn đề kinh tế chính trị cấp bách tại Việt Nam hiện nay được trình bày thông qua những mối quan hệ lớn, tác động đến quá trình hoàn thiện thể chế chính trị cũng như sự phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội của đất nước.
Mối quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển. Ổn định và đổi mới đều phải nằm trong những giới hạn nhất định. Phát triển đất nước là cơ sở, điều kiện để cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, phát triển các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh. Để phát triển đất nước, cần phải giải quyết nhiều vấn đề. Tuy nhiên, tiền đề quan trọng nhất là phải đổi mới, vì không có “cái mới” sẽ không có phát triển. Đổi mới lại đòi hỏi phải có ổn định chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hóa - xã hội…. Đồng thời, đổi mới, phát triển lại tạo tiền đề giữ vững ổn định. Đây là quan hệ thuận chiều của mối quan hệ lớn ổn định – đổi mới – phát triển và giải quyết mối quan hệ này theo chiều thuận không phải là khó khăn lớn nhất. Mối quan hệ này còn có chiều nghịch. Nếu ổn định được hiểu là giữ nguyên hoặc thay đổi dần dần, từng chút một về mọi phương diện sẽ không có đổi mới, phát triển. Ổn định mà không làm xuất hiện cái mới, không có đổi mới thì đó là sự trì trệ. Trong quan hệ với phát triển thì ổn định phải tạo tiền đề cho sự xuất hiện cái mới, phải có đổi mới. Ngược lại, đổi mới quá nhanh có thể dẫn đến mất ổn định và sẽ không có phát triển. Trong thực tế, đề cao ổn định và đòi hỏi đổi mới phải thật nhanh đều tồn tại. Vì vậy, tránh được hai xu thế đó đều là yêu cầu rất cấp thiết.
Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước hoàn thiện nhận thức về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Theo đó, “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương”. Đổi mới chính trị tập trung ba lĩnh vực cơ bản: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Tại Đại hội XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục coi mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong các quan hệ lớn cần giải quyết trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; khẳng định tiếp tục thực hiện “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt”. Mặc dù vậy, vẫn còn tồn tại tình trạng đổi mới chính trị chưa đồng bộ, chưa theo kịp đổi mới kinh tế. Điều này được biểu hiện thông qua việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm; một bộ phận cán bộ, đảng viên “tự diễn biến, tự chuyển hóa”; tình trạng tham nhũng… còn khá phổ biến. Những hạn chế này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tiếp tục đổi mới, phát triển đất nước.
Mối quan hệ giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Mối quan hệ giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Chúng thống nhất ở chỗ: tuân thủ các quy luật thị trường sẽ làm cho các hoạt động kinh tế năng động, hiệu quả, nền kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống người dân không ngừng được nâng cao… sớm thực hiện được mục tiêu chủ nghĩa xã hội; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ hạn chế được những khuyết tật của kinh tế thị trường, làm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định hơn, ít có những vấn đề xã hội hơn… Chúng mâu thuẫn với nhau ở chỗ: quan tâm bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa quá mức có thể ảnh hưởng đến hoạt động của các quy luật thị trường, đến hiệu quả của các hoạt động kinh tế. Ngược lại, quan tâm quá mức phát triển kinh tế thị trường, đến hiệu quả các hoạt động kinh tế có thể ảnh hưởng xấu đến thực hiện mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
Quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất. Giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có quan hệ biện chứng trong đó quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật cơ bản, xuyên suốt và chi phối sự phát triển của xã hội loài người. Lực lượng sản xuất quyết định nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất; ngược lại, quan hệ sản xuất tác động trở lại, quy định mục tiêu xã hội của sản xuất, từ đó hình thành những yếu tố thúc đẩy lực lượng sản xuất nếu phù hợp hoặc kìm hãm nếu không phù hợp. Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, yêu cầu đặt ra là phải xây dựng được cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại.
Mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là chủ thể quản lý kinh tế - xã hội, có khả năng hạn chế, khắc phục các khuyết tật của kinh tế thị trường; thực hiện chức năng kiến tạo phát triển, tạo lập môi trường thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp, người dân và các tổ chức xã hội… Do đó, nhà nước là công cụ vô cùng quan trọng phát triển đất nước, định hướng đất nước lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nhà nước cũng có những khuyết tật nhất định. Do có sức mạnh, quyền lực, các cơ quan công quyền và công chức nhà nước có khả năng lạm quyền, tham nhũng, xâm phạm quyền tự do, dân chủ của người dân, doanh nghiệp… Từ đó làm tổn hại sức mạnh, uy tín của nhà nước; ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế - xã hội. Nếu các chủ thể thị trường và các tổ chức xã hội được tôn trọng, hoạt động của cơ quan nhà nước và các nhà quản lý được giám sát và phản biện, được tư vấn, góp ý... nhà nước có khả năng sẽ thực hiện đúng vai trò của mình.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Đây là mối quan hệ lớn thể hiện quan hệ giữa kinh tế với một số lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Trong mối quan hệ này, tăng trưởng kinh tế được coi là trung tâm nhưng vẫn phải phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Điều này không chỉ thể hiện mục tiêu phát triển con người, phát triển bền vững, mà còn vì tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định lâu dài. Tăng trưởng kinh tế vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Chúng thống nhất với nhau ở chỗ: tăng trưởng kinh tế là cơ sở, điều kiện để phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và ngược lại. Đồng thời, chúng mâu thuẫn với nhau khi ưu tiên tăng trưởng kinh tế quá mức sẽ không có điều kiện phát triển văn hoá, gây bất bình đẳng, xung đột, bất ổn xã hội, hủy hoại môi trường, ảnh hưởng xấu đến phát triển xã hội và đến tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, nếu ưu tiên phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sẽ ảnh hưởng đến các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế tăng trưởng chậm sẽ ảnh hưởng xấu đến đầu tư phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế là mối quan hệ lớn, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế có nghĩa là chúng ta tự quyết định đối tác, lĩnh vực, chủ thể tham gia; lộ trình, bước đi, các giải pháp… hội nhập quốc tế. Như thế, độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện để hội nhập quốc tế thành công. Hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả sẽ tận dụng các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế quốc gia… từ đó củng cố độc lập, tự chủ. Bênh cạnh đó, độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế còn mâu thuẫn với nhau. Nếu đề cao độc lập, tự chủ sẽ khó khăn trong hội nhập quốc tế hay hội nhập cầm chừng. Từ đó cơ hội tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài bị bỏ qua, đất nước phát triển chậm, độc lập, tự chủ không được củng cố, thậm chí lệ thuộc bên ngoài. Ngược lại, đề cao hội nhập trong khi khả năng tiếp nhận ngoại lực còn yếu sẽ dẫn đến lệ thuộc bên ngoài, mất độc lập, tự chủ.
Môt số kiến nghị được đề xuất
Sự vận động của kinh tế chính trị thế giới là xu thế tất yếu của lịch sử toàn cầu. Mỗi giai đoạn lịch sử đều gắn với logic và bối cảnh, yếu tố nhất định - quy định nội hàm của sự vận động/phát triển đặc trưng trên cơ sở kế thừa của giai đoạn trước và bổ sung mới của điều kiện thời đại. Yêu cầu đặt ra là các chủ thể quản lý cần nhận diện rõ, chính xác và đưa ra những điều chỉnh phù hợp, bảo đảm cho sự vận động kinh tế chính trị an toàn và bền vững, vì lợi ích chung - riêng của toàn cầu và quốc gia dân tộc. Nói cách khác, cần có tiếp cận kinh tế chính trị phù hợp (thực tế hơn) để hạn chế rủi ro và xung đột lợi ích.
Là cầu nối châu Á với Đông Nam Á, nằm trên các tuyến đường hàng hải quan trọng kết nối Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, là cửa ngõ giao thương với các nền kinh tế của khu vực và thế giới, Việt Nam có vị trí địa - chiến lược quan trọng và có tiềm năng phát triển mạnh mẽ. Trong bối cảnh hiện nay, để tận dụng thời cơ và vượt qua các thách thức, Việt Nam cần có một chiến lược phát triển phù hợp, tận dụng tối đa các lợi thế và chủ động ứng phó với các khó khăn, đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Thứ nhất, tiếp tục phát triển, hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền tảng hình thành, tương tác lẫn nhau, tác động đến việc thực hiện các mục tiêu phát triển và bảo vệ đất nước. Về nguyên tắc, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa càng phát triển, các ưu việt của kinh tế thị trường càng được thể hiện đầy đủ, các khuyết tật của kinh tế thị trường càng giảm bớt. Từ đó, các mối quan hệ lớn càng thể hiện đầy đủ hơn, tương tác lẫn nhau, tác động đến thực hiện mục tiêu phát triển và bảo vệ đất nước mạnh mẽ hơn. Do vậy, việc xử lý các mối quan hệ này cũng thuận lợi hơn. Đồng thời, cần xây dựng và không ngừng hoàn thiện thể chế phát triển.
Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ và có hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức có một số đặc trưng, như sử dụng nguồn lực một cách thông minh, tính vô hình của đầu tư (tức nhấn mạnh giá trị của sở hữu trí tuệ...), sự phát triển của công nghiệp về tri thức, sự phát triển bền vững về kinh tế, phi tập trung hóa việc hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, thúc đẩy việc hình thành chuỗi sản xuất và giá trị toàn cầu…. Để làm được điều này, cần phải vận dụng nhận thức và cách xử lý mối quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển. Lực lượng sản xuất phát triển cần có quan hệ sản xuất ổn định tương đối. Khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất phải đổi mới, từ đó cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cùng phát triển. Đồng thời, cần đánh giá và vận dụng mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Tăng trưởng kinh tế là trọng tâm; đồng thời, đảm bảo phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường phải đồng bộ với tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, đề cao sự điều tiết linh hoạt và thích ứng của các chủ thể quản trị quốc gia và toàn cầu. Khi thông tin quản lý trở nên minh bạch, mở rộng tiếp cận cho mọi chủ thể trong xã hội, sự dân chủ trong quản lý và điều hành vĩ mô, việc chuyển sang mô hình quản trị hiện đại, “có sự tham gia của các bên liên quan”, đề cao sứ mệnh phục vụ là cần thiết. Cách thức can thiệp thị trường mang tính toàn cầu phải dựa trên sự phối hợp và hợp tác, thích ứng bối cảnh hội nhập song phương và đa phương. Để đảm bảo cho sự phát triển bền vững, kiểm soát rủi ro, cần vai trò nhà nước trong việc ổn định chính trị lâu dài, duy trì sự công bằng ở mức có thể. Mô hình nhà nước nên được chuyển dần sang mô hình nhà nước phát triển. Theo đó, cơ chế thị trường kết hợp với sự can thiệp thích ứng của nhà nước, phù hợp cho sự phát triển.
Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh việc kết hợp hình thức quản lý trực tiếp và gián tiếp dựa trên nền tảng thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến. Tại Việt Nam, hình thức quản lý truyền thống nặng về hành chính trực tiếp đang dần được chuyển sang hình thức quản lý gián tiếp bằng cách áp dụng những thành tựu của công nghệ số vào quy trình quản lý. Điều này góp phần cải thiện tính khách quan, minh bạch trong công tác quản lý, đồng thời, nâng cao hiệu quả, kịp thời và tiện lợi cho mọi thành viên trong xã hội. Tuy nhiên, việc ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ trong quản lý nhà nước còn chưa đồng bộ và phát sinh nhiều hạn chế tại một số địa phương. Đầu tư xây dựng hạ tầng số đồng bộ, hiện đại, và tổ chức các hoạt động đào tạo, tập huấn nhằm nâng cao hiểu biết và khả năng ứng dụng công nghệ hiện đại trong quản lý là một trong những nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
Thứ năm, hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước Việt Nam theo hướng linh hoạt, đa dạng và thích ứng với các luật lệ và quy định quốc tế, đảm bảo hội nhập quốc tế sâu rộng. Khi tham gia vào sân chơi quốc tế trên bình diện của “thế giới phẳng”, Việt Nam không chỉ phải hoàn thiện bản thân, mà còn phải thích ứng với luật chơi quốc tế để hạn chế rủi ro và bảo đảm lợi ích quốc gia. Điều này đặt ra yêu cầu điều chỉnh thích ứng của “nội vi” quốc gia với “ngoại vi” toàn cầu. Một mặt, nó mở rộng không gian chính sách cho nước ta khi tham gia toàn cầu; mặt khác, cũng phải tính toán tới việc tuân thủ các ràng buộc quốc tế đã cam kết. Trong bối cảnh quốc tế phức tạp, để bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, Việt Nam cũng cần tiếp tục hoàn thiện đường lối đối ngoại, nâng cao năng lực ngoại giao. Đồng thời, cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để xây dựng một ý thức cộng đồng quốc tế mạnh mẽ trong nhân dân, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
*Báo cáo được tổng kết từ Hội thảo quốc gia “Khoa học Kinh tế Chính trị: Những vấn đề đương đại” của Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN, tổ chức ngày 26/10/2024.