Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) đã chính thức được hai bên ký kết vào ngày 30/6/2019. Ngày 12/2/2020, Nghị viện Châu Âu đã phê chuẩn EVFTA trong khi Quốc hội Việt Nam đã chính thức phê chuẩn vào tháng 6/2020. EVFTA có hiệu lực vào tháng 8/2020. Với vai trò đầu tàu của Đức trong EU, khi EVFTA đi vào thực thi, Đức được xem là một trong những thị trường quan trọng hàng đầu cho hàng xuất khẩu của Việt Nam và là nguồn thay thế nhập khẩu chất lượng cao cho các thị trường hiện tại của Việt Nam.
Trên thực tế, là hai
quốc gia có mức độ bổ sung thương mại lớn, thương mại giữa Đức và Việt Nam đã
phát triển nhanh và năng động. Do đó, việc hiểu những thay đổi của thương mại
Việt Nam - Đức khi EVFTA chính thức được thực thi có ý nghĩa quan trọng để giúp
thương mại Việt Nam - Đức nói riêng và thương mại Việt Nam - EU nói chung hướng
tới phát triển bền vững.
Qua
phân tích thương mại của Đức với Việt Nam từ năm 2001 đến nay, có thể rút ra một
số kết luận sau:
Thứ
nhất, cơ cấu thương mại Việt Nam và Đức có sự thay đổi theo hướng
tăng mạnh tỷ trọng nhóm ngành ô nhiễm trung bình, tăng nhẹ tỷ trọng nhóm ngành
ô nhiễm nhất trong khi giảm dần tỷ trọng nhóm ngành ô nhiễm ít nhất. Như vậy, nếu
xét về khía cạnh môi trường, dường như thương mại Việt Nam và Đức đang làm gia
tăng sức ép lên môi trường của hai quốc gia.
Thứ
hai, với hoạt động xuất khẩu, nhóm ngành ô nhiễm nhiều nhất
luôn chiếm tỷ trọng thấp nhất. Đây là điểm tích cực thể hiện phần nào sự bền vững
trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Đức. Trong khi đó, tỷ trọng nhóm ngành
ô nhiễm nhiều nhất có xu hướng gia tăng trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt
Nam từ Đức. Nếu đứng trên góc độ của Việt Nam, thì việc Việt Nam gia tăng nhập
khẩu nhóm ngành ô nhiễm nhiều nhất từ thế giới sẽ làm giảm sức ép đến môi trường
của Việt Nam.
Thứ
ba, trong giai đoạn 2001-2018, nhóm ngành ô nhiễm nhiều nhất
liên tục thâm hụt và thâm hụt ngày càng tăng. Nếu nhìn từ góc độ môi trường,
khi nhập siêu trong nhóm ngành ô nhiễm nhiều nhất tăng lên, đồng nghĩa với việc
có thể dẫn tới việc giảm sản xuất các ngành có mức độ ô nhiễm cao trong nước,
như vậy sẽ giúp giảm được những ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường quốc gia.
Thứ
tư, trong nhóm ngành ô nhiễm ít nhất, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu
sang Đức các các loại quả, hạt điều, dệt may, giày dép trong khi nhập khẩu từ Đức
các thiết bị và dụng cụ y tế, quang học, vật lý, hóa học và đo lường. Tuy các mặt
hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay sang Đức chủ yếu có giá trị gia tăng thấp,
thâm dụng lao động và tài nguyên nhưng đều là những mặt hàng Việt Nam có lợi thế
so sánh cao và do đó trong tương lai gần, Việt Nam vẫn cần tiếp tục đẩy mạnh xuất
khẩu các mặt hàng này; đồng thời tiếp tục tăng cường nhập khẩu từ Đức các thiết
bị và dụng cụ y tế, quang học. Tuy nhiên, để nâng cao sự bền vững về khía cạnh
kinh tế trong hoạt động xuất khẩu, Việt Nam cần ưu tiên những biện pháp nâng
cao giá trị gia tăng của các mặt hàng nông sản, dệt may, giầy dép để thu được lợi
ích cao hơn từ EVFTA.
Thứ
năm, trong nhóm ngành ô nhiễm trung bình, việc thúc đẩy thương mại
trong nhóm ngành Máy móc thiết bị cơ khí, điện và điện tử là cần thiết để giúp
Việt Nam đẩy mạnh quá trình CNH, HĐN, tiếp thu công nghệ nguồn từ Đức, thay thế
các nguồn nhập khẩu công nghệ kém chất lượng hơn cũng như tăng sản xuất hàng xuất
khẩu. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng hợp tác, học hỏi các
doanh nghiệp Đức về công nghệ, đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ từ Đức và tham gia
sâu hơn vào chuỗi giá trị các mặt hàng mà Đức có nhu cầu cũng như có thế mạnh.
Thứ
sáu, trong nhóm ngành ô nhiễm nhất, Việt Nam không có sản phẩm
xuất khẩu nào chiếm ưu thế nổi trội và chủ yếu là các sản phẩm tiêu dùng. Theo
chiều ngược lại, Việt Nam nhập khẩu nhiều nhất từ Đức sản phẩm hóa chất nhưng
trong đó dược phẩm là nhóm hàng chủ chốt. Với vai trò đặc biệt quan trọng của dược
phẩm cũng như ưu đãi của Việt Nam cho EU nói chung và Đức nói riêng với sản phẩm
này trong EVFTA, nhập khẩu dược phẩm từ Việt Nam từ Đức có nhiều khả năng sẽ
tăng lên. Các doanh nghiệp dược phẩm Việt Nam cần nâng cao năng lực sản xuất và
đầu tư nhiều hơn vào R&D, hướng tới các sản phẩm chất lượng cao và các loại
thuốc chuyên khoa đặc hiệu.
*
Triển vọng thu hút FDI từ EU trong bối cảnh hai bên đã
ký kết EVFTA là rất tích cực. FDI từ EU không chỉ đơn thuần bổ sung thêm vốn đầu
tư mà còn có thể giúp Việt Nam tiếp cận và bắt kịp các xu hướng phát triển mới
của thế giới, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh hơn mà không gây tổn hại
đến các mục tiêu xã hội và môi trường. Tuy nhiên, Việt Nam cũng cần lưu ý một số
vấn đề trong thu hút FDI từ EU:
1) Lợi thế trong thu hút FDI của Việt Nam đến từ việc sớm
ký kết FTA với EU trong khi các nước cạnh tranh chính trong khu vực về thương mại
và đầu tư chưa có FTA với EU. Tuy nhiên, lợi thế này chỉ tồn tại trong ngắn hạn
vì định hướng của cả ASEAN và EU là một FTA giữa hai khu vực. Khi đó, lợi thế về
thuế nhập khẩu thấp hơn, các cơ chế tạo thuận lợi thương mại và đầu tư dành
riêng cho Việt Nam sẽ không còn. Vì vậy, Việt Nam cần tận dụng triệt để khoảng
“thời gian vàng” khi các nước ASEAN chưa có FTA với EU để tiếp cận, thâm nhập
thị trường cũng như thu hút FDI từ các nước EU.
2) Để thu hút được FDI chất lượng cao, EVFTA chỉ là yếu tố
hỗ trợ chứ không có tính quyết định. Muốn cải thiện chất lượng dòng vốn FDI, Việt
Nam cần tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực và trình độ công nghệ. Mặc dù gần đây có nhiều cải thiện trong Bảng xếp
hạng môi trường kinh doanh do World Bank (2019) thực hiện, thứ hạng của Việt
Nam vẫn còn khá khiêm tốn (70/190) khi so sánh với các nước cạnh tranh thu hút
FDI, như Singapore và Malaysia. Một số chỉ tiêu cần tiếp tục cải thiện đáng kể
như thủ tục liên quan đến khởi sự kinh doanh, giải quyết phá sản, quy định về
thuế, thương mại qua biên giới và bảo vệ nhà đầu tư thiểu số. Còn theo báo cáo
của Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF, 2017), các rào cản lớn khiến Việt Nam khó
di chuyển lên vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu chính là hạn chế ở mức
độ tinh vi trong sản xuất, kinh doanh, chất lượng của nhà cung ứng trong nước
và sự sẵn có của công nghệ mới nhất... Về trình độ công nghệ và chất lượng nguồn
nhân lực, theo WEF và Kearney (2018), Việt Nam được đánh giá thuộc nhóm “chưa sẵn
sàng cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”. Nếu so sánh với các nước ASEAN khác,
Việt Nam xếp sau Malaysia, Thái Lan, Philippines về các yếu tố đổi mới sáng tạo
công nghệ và giáo dục, công nghệ nền, năng lực sáng tạo và nguồn lực con người.
Đây là những yếu tố Việt Nam cần tích cực cải thiện trong thời gian tới để thu
hút được dòng vốn FDI chất lượng cao.
3) EVFTA một mặt mang lại cơ hội liên kết, làm ăn với các
doanh nghiệp EU, song cũng tạo ra áp lực cạnh tranh rất lớn đối với các doanh
nghiệp nội địa. Mặc dù EVFTA có tác động sâu rộng song theo đánh giá của Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), số lượng doanh nghiệp có hiểu biết về
EVFTA vẫn còn rất hạn chế. Điều này có thể làm hạn chế khả năng của doanh nghiệp
trong việc tận dụng các cơ hội cũng như chuẩn bị sẵn sàng trước các thách thức
mà EVFTA mang lại. Vì vậy, việc tăng cường nhận thức và nghiên cứu về tác động
của EVFTA cho các đối tượng có liên quan, đặc biệt là các doanh nghiệp trong nước
là vô cùng cần thiết.
*
Các gợi mở trên đã được đề cập trong bài viết của tác giả Vũ Thanh
Hương và Nguyễn Thị Minh Phương trong phần 2 (Thương mại và Đầu tư) cuốn “Việt Nam và Đức: phát triển bền
vững trong bối cảnh biến đổi toàn cầu”
xuất bản tháng 11/2020, do PGS.TS. Nguyễn Anh Thu - Phó Hiệu trưởng Trường Đại
học Kinh tế - ĐHQGHN và GS. Andreas Stoffers - Giám đốc quốc gia Viện FNF Việt
Nam đồng chủ biên. Cuốn sách là ấn phẩm kỷ niệm 45 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Đức (1975-2020);
là sản phẩm của mối quan hệ hợp tác nghiên cứu học thuật hữu nghị lâu
dài giữa Viện FNF và Trường Đại học
Kinh tế.
Cuốn sách này giúp độc giả theo dõi được nhiều lĩnh vực khác
nhau của mối quan hệ giữa Việt Nam và Đức, tuy
nhiên, ra đời trong bối cảnh thế giới có nhiều sự kiện lớn: Hiệp định
Thương mại Tự do Việt Nam -
EU (EVFTA) được phê duyệt và các tác động của các biện pháp phòng chống đại dịch
Covid-19 diễn ra trong năm 2020, cuốn sách tập trung đề cập nhiều đến tiến trình “biến đổi toàn cầu” và “bền vững”
của hai quốc gia.
Cuốn
sách mang tới những thảo luận và chia sẻ về bối cảnh hội nhập mới, tác động của
bối cảnh đó tới các vấn đề kinh tế và thương mại giữa hai nước, gợi mở về những
mô hình phát triển kinh tế hướng tới xanh, bền vững như kinh tế tuần hoàn, tài
chính xanh, những mô hình kinh doanh dựa trên đổi mới sáng tạo và các góc nhìn
khác về giáo dục, văn hóa.
Sách phát hành tại:
Phòng Tạp chí - Xuất bản, Trường
Đại học Kinh tế - ĐHQGHN
Số 144 đường Xuân Thủy, Cầu Giấy,
Hà Nội
Tel:
(84-24)37547506 + 703
Email:
phongtcxb@vnu.edu.vn
Website:
http://ueb.edu.vn
Fanpage:
https://www.facebook.com/UEBresearch