Ngày 26/11/2021, Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN đã phối hợp với Trường Đại học Adelaide, Australia và Trường Đại học Quốc gia Chengchi, Đài Loan tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế với chủ đề “Thương mại và đầu tư quốc tế hướng tới chuyển đổi số và chuyển đổi xanh”. Hội thảo được tài trợ bởi Viện Friedrich Naumann for Freedom (FNF) tại Việt Nam.
Hội thảo
được tổ chức kết hợp giữa hình thức trực tiếp tại Trường ĐH Kinh tế - ĐHQGHN,
trực tuyến và phát trực tiếp trên Fanpage của Trường ĐH Kinh tế.
Tham dự
Hội thảo, về phía Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN có PGS.TS. Nguyễn Trúc Lê UEB
Hiệu trưởng nhà trường, PGS. TS. Nguyễn Anh Thu - Phó Hiệu trưởng. Về phía
Trường Đại học Adelaide, Australia có GS. Peter Draper - Trưởng Khoa Kinh tế và
Chính sách công, Giám đốc Viện Thương mại Quốc tế. Về phía Trường Đại học Quốc
gia Chengchi, Đài Loan có sự hiện diện của GS. Robin K. Chou UEB Giáo sư danh
dự về Tài chính, Chủ tịch Hiệp hội Tài chính Châu Á, Phó Chủ nhiệm Khoa Thương
mại. Về phía FNF có GS. Andreas Stoffers - Giám đốc quốc gia. Bên cạnh đó, còn
có sự tham gia của đại diện các cơ quan quản lý Nhà nước: Bà Nguyễn Thị Diệu
Trinh, Phó Vụ Trưởng Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư; Bà Lê Thị Hà, Trưởng Phòng Chính sách, Cục Thương mại Điện tử
và Kinh tế số, Bộ Công thương. Hội thảo còn nhận được sự quan tâm và đồng hành
của PGS.TS. Mai Quang Vinh, Chủ tịch Hội đồng quản trị Liên hiệp Hợp tác xã
Kinh tế số Việt Nam, Viện trưởng Viện Công nghệ xanh, Công ty Cổ phần Xuất Nhập
khẩu và Thương Mại Green Path Việt Nam. Và hơn hết, Hội thảo thu hút sự tham
gia của hơn 200 nhà hoạch định chính sách, chuyên gia, học giả quốc tế, nghiên
cứu sinh, học viên, sinh viên đến từ các cơ quan nhà nước, các trường đại học
và viện nghiên cứu trong và ngoài nước.
Hội thảo
được chia ra làm hai phiên thảo luận chính. Trong phiên buổi sáng, các nhà khoa
học đại diện từ các đơn vị tổ chức đã chia sẻ những nghiên cứu về tầm quan
trọng cũng như các khía cạnh khác nhau của việc phát triển nền kinh tế số và
xanh hóa nền kinh tế. Các nghiên cứu tập trung bàn luận về đề xuất thực hiện cơ
chế điều chỉnh biên giới các-bon của EU, từ đó đề xuất một số khuyến nghị cho
các doanh nghiệp xuất khẩu sang châu Âu có phương án giảm thiểu lượng phát thải
các-bon trong quá trình sản xuất để không vượt ngưỡng tiêu chuẩn mà EU đặt ra.
Song song với các đề xuất giảm lượng phát thải, các chỉ số hạn chế thương mại
số sẽ được so sánh thống kê chi tiết nhằm đưa ra những lưu ý cho quá trình ứng
dụng bộ chỉ số này trong các nghiên cứu tác động của các biện pháp thuế quan
hay phi thuế quan, và áp dụng cho khu vực và trên toàn cầu. PGS. Nguyễn Anh Thu
cũng chia sẻ các kết quả nghiên cứu về Chiến lược thương mại của EU hướng tới
chuyển đổi số, chuyển đổi xanh. Thông qua các nghiên cứu, các tác giả đã đưa ra
những khuyến nghị chính sách thiết thực giúp Việt Nam vượt qua các thách thức
trong quá trình thực hiện chiến lược số hóa và xanh hóa nền kinh tế.
Tiếp đó,
trong phiên buổi sáng, cuộc thảo luận bàn tròn về Xanh hóa và số hóa trong
thương mại và đầu tư quốc tế - Hàm ý chính sách cho Việt Nam có sự tham gia của
các tác giả phát biểu đề dẫn và các đại diện từ những cơ quan hoạch định chính
sách của Việt Nam như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công thương; đại diện của FNF
Việt Nam và Công ty Cổ phần Xuất Nhập khẩu và Thương Mại Green Path Việt Nam.
Các chuyên gia, diễn giả tập trung chia sẻ về chính sách số hoá và xanh hoá của
các nước, khu vực và của Việt Nam; kinh nghiệm của các doanh nghiệp trong quá
trình chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Kết quả của Hội nghị lần thứ 26 các bên
tham gia Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu (COP26) cũng như
ảnh hưởng của Hội nghị tới Việt Nam đã được chia sẻ tại phiên thảo luận
này.
Buổi
chiều cùng ngày, ba phiên thảo luận song song được tiến hành trong 3 phòng hội
thảo với các chủ đề chính: (1) Kinh tế xanh, (2) Kinh tế số, và
(3) Phát triển bền vững. Sự góp mặt đông đảo của các diễn giả đến từ các
trường đại học trong và ngoai nước như Australia, Ba Lan, Nga, Đài Loan, Nhật
Bản... đã giúp cho các vấn đề được thảo luận trong phiên buổi sáng được phân
tích sâu sắc hơn, đồng thời giúp tăng cường liên kết học thuật đa quốc gia.
Thông qua
các bài trình bày và thảo luận tại Hội thảo có thể thấy rằng Việt Nam đang đứng
trước cơ hội mới trong việc phát triển nền kinh tế theo hướng chuyển đổi số và
xanh hóa. Hội thảo đã đưa ra một số hàm ý chính sách để hỗ trợ Việt Nam nhanh
chóng hội nhập vào xu thế phát triển mới của thế giới, thúc đẩy sự phát triển
bền vững và hiện đại.
Prof.
Robin K. Chou - Giáo sư danh dự về Tài chính, Chủ tịch Hiệp hội Tài
chính Châu Á, Phó Chủ nhiệm Khoa Thương mại, Trường Đại học Quốc gia
Chengchi, Đài Loan trình bày trong Hội thảo với chủ đề: “Tâm lý
CEO và việc nắm giữ tiền mặt của công ty: Bằng chứng từ các dòng tweets
của CEO trên Twiter”
1. Hàm ý cho xanh hóa nền kinh tế:
Để tăng trưởng xanh góp
phần đổi mới mô hình tăng trưởng, tăng cường năng lực chống chịu của nền kinh
tế và giảm thiểu tính dễ bị tổn thương của con người trước các cú sốc bên
ngoài, thời gian tới, trong tổng thể các giải pháp, cần chú trọng một số vấn đề
sau:
Đối với
Chính phủ
- Nâng cao nhận thức, chuyển đổi mạnh mẽ trong hành động về tăng
trưởng xanh cho các cấp lãnh đạo ở các quan quản lý Nhà nước, các ngành, địa
phương và doanh nghiệp. Cần nhận thức rõ, tiếp cận với tăng trưởng xanh không
chỉ là lồng ghép trong các quyết định phát triển mà phải coi đây là một chỉnh
thể thống nhất với các thành phần của phát triển bền vững. Do đó, cần thiết
phải xây dựng và thực hiện các dự án truyền thông, tuyên truyền nâng cao nhận
thức của cả hệ thống chính trị, doanh nghiệp và cộng đồng về thực hiện tăng
trưởng xanh, góp phần xây dựng đất nước phát triển bền vững;
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế, khung khổ pháp lý cho toàn bộ các
lĩnh vực, đặc biệt là các lĩnh vực chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến quá trình tăng
trưởng xanh;
- Tập trung vào khoa học công nghệ, chuyển đổi số, đổi mới sáng
tạo và các yếu tố xã hội. Tạo cơ chế khuyến khích đầu tư cho tăng trưởng xanh
theo hướng mở;
- Huy động nguồn lực trong nước và quốc tế, tăng cường hợp tác
quốc tế thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào các lĩnh vực chính của
tăng trưởng xanh như năng lượng sạch, nông nghiệp, công nghiệp, tiêu dùng…Đặc
biệt, cần coi trọng nguồn lực tài chính làm đòn bầy. Hiện nay, năng lực thực
hiện chủ yếu dựa trên hỗ trợ tài chính và kỹ thuật của các tổ chức quốc tế, các
tổ chức phi Chính phủ. Cần khuyến khích và thu hút được nhiều đầu tư tư nhân
trong lĩnh vực tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường.
Đối với doanh nghiệp
- Các doanh nghiệp cần xác định rõ những thách thức và cơ hội, bảo
đảm tuân thủ các quy định về môi trường, đổi mới công nghệ và nâng cao hiệu quả
sản xuất, sắp xếp lại cơ cấu, hạn chế phát triển những ngành kinh tế phát sinh
chất thải lớn, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả
tài nguyên, hình thành đội ngũ doanh nhân “xanh” của đất nước.
2. Hàm ý thúc đầy chuyển đổi số
Phát
triển kinh tế số đã và đang là một xu thế tất yếu của cả thế giới. Những lợi
ích mà kinh tế số đem lại như gia tăng hiệu quả quản trị và sản xuất, năng lực
cạnh tranh, giảm thiểu khoảng cách trong thương mại giữa các nước và khu vực…
đóng góp rất lớn vào tốc độ phát triển kinh tế chung của quốc gia. Việt Nam
hiện nay chưa có chiến lược về kinh tế số và Bộ Công nghệ Thông tin và Truyền
thông cùng với các Bộ ngành vẫn đang trong quá trình xây dựng các chính sách,
chiến lược tổng thể thúc đẩy kinh tế số, chuyển đổi số. Việt Nam có nhiều tiềm
năng và điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế số như tốc độ
đường truyền băng thông của Việt Nam là loạt tốt của thế giới, sóng di động phủ
rộng gần hết lãnh thổ. Tuy nhiên mảng ứng dụng số hoá vào nền kinh tế chưa
tương xứng với tiềm năng và nhu cầu nền kinh tế đang chuyển đổi. Ứng dụng công
nghệ thông tin, chuyển đổi số của người dân vào các hoạt động kinh tế còn quá
thấp. Doanh nghiệp chưa thật sự sẵn sàng. Tuy có các văn bản pháp lý nhưng còn
chung chung thiếu chế tài, mục tiêu cụ thể. Để phát triển kinh tế số ở Việt
Nam, hội thảo đưa ra một số hàm ý chính sách sau:
Đối với Chính phủ
- Xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, chính sách nhằm tạo
khuôn khổ cho phát triển kinh tế số. Thành lập cơ quan thiết chế chuyên trách,
có thẩm quyền, trách nhiệm cao trong việc phát triển kinh tế số, thông thường
cơ quan này thường thuộc Chính phủ với sự tham gia, phối hợp của các bộ ngành
có liên quan. Nhà nước cần ban hành các nghị định về chia sẻ dữ liệu, xác thực
điện tử, bảo vệ dữ liệu cá nhân và bảo đảm quyền riêng tư của cá nhân cũng như
việc xử lý, giải quyết những tranh chấp, xung đột về hoạt động kinh doanh,
thương mại và dân sự trên môi trường số.
- Đẩy mạnh cải cách và số hóa các cơ quan quản lý nhà nước cũng
như các doanh nghiệp, bao gồm việc xây dựng kết cấu hạ tầng dữ liệu quốc gia,
xây dựng chiến lược quản trị số. Cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính như đơn
giản hóa, số hóa, điện tử hóa, minh bạch hóa thông tin để hỗ trợ người dân và
doanh nghiệp. Tập trung vào việc phát triển chính phủ điện tử, ngân hàng điện
tử, giao dịch điện tử và thương mại điện tử.
- Hỗ trợ nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam, đồng thời chú trọng bồi dưỡng, phổ biến, trang bị kiến thức cho đội ngũ
doanh nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu của kinh tế số và xu thế cách mạng công
nghiệp 4.0 cũng như thích ứng với hội nhập vào thị trường thế giới trong thời
kỳ mới. Cần có cơ chế khuyến khích thúc đẩy việc áp dụng công nghệ số ở cả bộ
phận doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp
chuyển đổi số và thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
- Khuyến khích và thúc đẩy mạnh việc thanh toán điện tử trong nền
kinh tế. Sử dụng các phương thức thanh toán điện tử hiện đại như quét mã QR,
thanh toán bằng ví điện tử qua điện thoại di động.
- Trang bị kiến thức, thống nhất tư tưởng và hành động về kinh tế
số, từ đó làm chuyển biến mạnh mẽ tư duy lãnh đạo quản lý cũng như điều hành
kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế số.
- Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh
tế số. Trong đó tập trung phát triển, thu hút các chuyên gia về công nghệ số,
các doanh nhân số; Đổi mới giáo dục, đào tạo bồi dưỡng để tái đào tạo lực lượng
lao động bắt kịp với xu hướng công nghệ số; Cập nhật, bổ sung các chương trình
đào tạo về công nghệ số, nền tảng số, từ mã hóa đến tư duy thiết kế và các kỹ
năng số cần thiết cho tương lai trong nhà trường; Đẩy mạnh liên kết đào tạo và
thực hành giữa trường với khu vực doanh nghiệp trong ứng dụng công nghệ số; Xây
dựng chính sách kết nối cộng đồng khoa học công nghệ trong nước với nước ngoài,
đặc biệt với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Đối với doanh nghiệp
- Các doanh nghiệp cũng cần chủ động tích hợp công nghệ số hóa,
thúc đẩy phát triển những giải pháp sản xuất và kinh doanh dựa trên số hóa; tối
ưu hóa mô hình kinh doanh, sử dụng hiệu quả chuỗi cung ứng thông minh; tận dụng
số hoá để thúc đẩy sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
- Phát triển kỹ năng công nghệ mới cho đội ngũ nhân viên như tăng
cường năng lực tiếp cận, tư duy sáng tạo và khả năng thích ứng với môi trường
công nghệ liên tục thay đổi và phát triển;
- Tiếp thu những mô hình quản lý mới cũng như ý tưởng sản xuất và
kinh doanh áp dụng công nghệ mới, đồng thời cũng tạo điều kiện và cơ hội cho
những sáng kiến công nghệ được ra đời và phát triển.
PGS.TS Nguyễn Anh Thu - Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế - ĐHQGHN báo cáo tham luận tại hội thảo Phần trình bày của PGS.TS Nguyễn Anh Thu tại hội thảo
3. Hàm ý thúc đẩy phát triển bền vững
Hiện nay
các quốc gia trên thế giới trên đều đang hướng đến các mục tiêu phát triển bền
vững, tuy nhiên để đạt được điều này là điều không dễ dàng, đặc biệt là quốc
gia đang phát triển. Bên cạnh đó, có rất nhiều yếu tố có ảnh hưởng đến mục tiêu
phát triển bền vững tại các quốc gia đang phát triển như sự ổn định chính trị,
bảo vệ môi trường, chất lượng nguồn nhân lực,…Phát triển bền vững gắn với bảo
vệ môi trường là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết đặt ra hiện
nay. Hướng tới thực hiện các cam kết trong Hội nghị COP26 mà Việt Nam vừa tham
gia, một số hàm ý chính sách được đưa ra như sau:
Đối với Chính phủ
- Thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế gắn với khai thác, sử dụng hiệu
quả và bền vững tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, phát
thải ít các bon. Đưa ra lộ trình để chuyển nền kinh tế sang tăng trưởng cac-bon
thấp, phát triển kinh tế tuần hoàn, tính đến phí tổn môi trường trong đầu tư
phát triển;
- Tăng đầu tư và chi tiêu công trong những lĩnh vực kích thích
xanh hóa nền kinh tế thông qua các khoản đầu tư thúc đẩy phát triển sử dụng
năng lượng mới, năng lượng tái tạo, các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu mới,
thân thiện môi trường;
- Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ trong các lĩnh vực năng
lượng, dự báo khí hậu, cảnh báo thiên tai và thời tiết cực đoan, điều tra, đánh
giá tài nguyên, quan trắc và giám sát môi trường, trong xây dựng cơ sở dữ liệu
về tài nguyên và môi trường;
- Tăng cường cơ chế hợp tác hiệu quả chia sẻ hài hoà lợi ích giữa
các nước trong hợp tác song phương, đa phương trong chia sẻ các nguồn tài
nguyên và trách nhiệm bảo vệ môi trường như hợp tác chia sẻ nguồn nước, tài
nguyên biển, giải quyết vấn đề ô nhiễm xuyên biên giới…Tích cực hội nhập quốc
tế, tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm quản
lý từ cộng đồng quốc tế cho phát triển bền vững đi đôi với bảo vệ môi trường;
- Tạo điều kiện phát triển cho các doanh nghiệp mới với ý tưởng
sáng tạo sản xuất kinh doanh gắn liền với bảo vệ môi trường.
Đối với
doanh nghiệp:
- Xác định mục tiêu, tầm nhìn dài hạn của doanh nghiệp về phát
triển bền vững;
- Nhận biết các tiêu chí phát triển bền vững phù hợp với thực tế
và mục tiêu của doanh nghiệp; trên cơ sở đó lựa chọn các tiêu chí để thực hiện
trong khoảng thời gian nhất định;
- Tập trung vào việc phát triển và sử dụng những công nghệ xanh,
công nghệ thân thiện với môi trường.
Các đại biểu thảo luận tại hội thảo
4. Một số hàm ý chính sách khác
Việt Nam
có thuận lợi là Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam UEB EU (EVFTA) là FTA thế
hệ mới, có nhiều giá trị tương đồng với chiến lược thương mại mới của EU. EVFTA
bao gồm các cam kết liên quan đến vấn đề lao động, môi trường, phát triển bền
vững (xanh), thương mại điện tử (số) với phạm vi cam kết sâu rộng, tạo thêm nhiều
đột phá, mở ra triển vọng mới cho quan hệ hợp tác Việt Nam và EU. Tuy nhiên,
bản thân EVFTA mới chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để thúc đẩy được quan hệ
thương mại, đầu tư Việt Nam - EU, nhất là sau khi EU đưa ra chiến lược thương
mại mới còn có nhiều điểm mới rộng hơn như kinh tế số…. EVFTA sẽ chỉ hiệu quả
nếu EU thực sự dịch chuyển sản xuất và chuỗi cung ứng từ Trung Quốc sang Việt
Nam để đa dạng hóa và giảm bớt vai trò, sự phụ thuộc vào Trung Quốc, đảm bảo an
ninh chiến lược của EU. Để tận dụng cơ hội này, Việt Nam nên chú trọng các vấn
đề sau:
- Chuẩn bị sẵn tác động tiêu cực đến từ các biện pháp phòng vệ
thương mại và rào cản bảo hộ mới của EU, mặt khác với những mặt hàng Việt Nam
có lợi thế về thuế suất, phải có giải pháp tránh bị lợi dụng thành nơi trung
chuyển hàng hóa, dẫn đến đối diện với nguy cơ trừng phạt từ EU.
- Tiếp cận công nghệ EU như năng lượng tái tạo, tận dụng và phát
triển theo xu hướng này để nâng cao tiêu chuẩn chất lượng quốc gia.
- Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, đặc biệt là các vấn đề
liên quan đến sở hữu trí tuệ hay năng lượng xanh, kinh tế số, thuế carbon, minh
bạch trợ cấp, chuyển giao công nghệ, công ty nhà nước …chưa đáp ứng được yêu
cầu về cơ sở hạ tầng, chất lượng nhân lực và trình độ công nghệ của các nước
phát triển.
*
Có thể thấy rằng, Hội thảo
đã trở thành diễn đàn để các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản trị doanh
nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế
trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về các vấn đề liên quan đến quá trình chuyển đổi
nền kinh tế theo hướng số hóa và xanh hóa. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới
hiện đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức nghiêm trọng như hiện nay, các
hàm ý chính sách cho Chính phủ có ý nghĩa hết sức quan trọng để giúp cho Việt
Nam thực hiện tốt chiến lược chuyển đổi số và xanh hóa hướng tới phát triển bền
vững. Đồng thời, doanh nghiệp Việt Nam có thể tham khảo các hàm ý từ Hội thảo
để ứng phó với đại dịch và xây dựng chiến lược kinh doanh bền vững theo hướng
xanh hóa, phù hợp với các tiêu chí mới đã thông qua trong hội nghị COP26.
>> Tài liệu hội thảo
có thể được tải tại link:
CIECI 2021 Proceedings. Morning Session
CIECI 2021 Proceedings. Afternoon Sessions