Trước diễn biến ngày càng phức tạp của đại dịch Covid-19, trong Quý 3 năm 2020, nền kinh tế thế giới tiếp tục bước vào giai đoạn tăng trưởng âm, chỉ có một số ít quốc gia (trong đó có Việt Nam) đạt mức tăng trưởng dương. Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thuộc Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN tiếp tục đưa ra báo cáo thường kỳ với những điểm chính sau:
Bức tranh nền kinh tế thế giới:
- Nhiều nền kinh tế hứng chịu tăng trưởng âm trong Quý
2/2020. Việc hầu hết các nền kinh tế lớn buộc phải đóng cửa trong các tháng đầu
năm có tác động nghiêm trọng lên thị trường lao động và gây đình trệ chuỗi cung
ứng sản xuất toàn cầu.
- Kinh tế Trung Quốc trong Quý 2/2020 bắt đầu hồi phục
tăng trưởng ở mức 3,2%, sau khi sụt giảm mạnh vào Quý 1 ở mức âm 6,8%. Trong
chín tháng đầu năm, PBoC đã ba lần cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại các ngân
hàng thương mại, đồng thời tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa mở rộng. Thu
ngân sách nước này đã bắt đầu tăng trở lại từ tháng Sáu.
- FED tiếp tục giữ lãi suất ở mức 0 - 0,25%, đồng thời
tiếp tục mua trái phiếu kho bạc và chứng khoán có đảm bảo bằng tài sản thế chấp
trong các nỗ lực điều tiết thị trường.
- FED tiếp tục giữ lãi suất ở mức 0 - 0,25%, tiếp tục
mua trái phiếu kho bạc và chứng khoán có đảm bảo bằng tài sản thế chấp. Các gói
hỗ trợ tài khóa cũng tiếp tục được chính phủ thực hiện. Theo ước tính mới nhất
vào tháng 9/2020 của Ủy ban Ngân sách của Quốc hội Mỹ, thâm hụt ngân sách Mỹ
trong năm 2020 có thể chạm mức 3,3 nghìn tỷ USD.
- Tại châu Âu, ECB giữ nguyên lãi suất và chi thêm 120
tỷ EUR vào gói thu mua tài sản (APP) cho đến cuối năm và chi thêm 600 tỷ EUR
cho PEPP, nâng tổng trị giá của chương trình này lên mức 1.350 tỷ EUR. Cuối
tháng 9/2020, Ủy ban châu Âu thông qua gói tài trợ 87,4 tỷ EUR cho các nước
thành viên để bảo vệ thị trường lao động.
Tình hình kinh tế Việt Nam:
Trước ảnh hưởng nghiêm trọng của Covid-19 lên kinh tế
toàn cầu, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia trên thế giới có mức tăng
trưởng kinh tế dương trong Quý 3/2020, đạt 2,62% (yoy). Tính chung 9 tháng đầu
năm, GDP tăng 2,12% (yoy). Trong 9 tháng đầu năm, cả nước có gần 99 nghìn doanh
nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 3,2% về số doanh nghiệp, tăng 10,7% về vốn
đăng ký và giảm 16,3% về số lao động so với 9 tháng đầu năm 2019. Số doanh
nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn tăng 81,8% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 tăng 2,98% (yoy), lạm phát bình quân 9 tháng đầu
năm 2020 ở mức 3,85% do giá dịch vụ ăn uống, lương thực, thực phẩm tăng. Tỷ giá
trung tâm tại Ngân hàng Nhà nước gần như đi ngang trong suốt Quý 3/2020. Tỷ giá
tại các NHTM có xu hướng tương tự. Tỷ giá có thể giữ mức thấp đến hết năm do
VND khó giảm mạnh giá trị so với đồng USD, một phần vì đồng USD đang có xu
hướng suy yếu. Nhìn chung, giá vàng trong nước đang theo sát những bước tiến
của giá vàng thế giới. Với triển vọng kinh tế toàn cầu ảm đạm, dự báo trong quý
tới giá vàng trong nước vẫn ở mức cao.
Khuyến nghị đối với Việt Nam:
Thứ nhất, về chính sách an
sinh xã hội và hỗ trợ doanh nghiệp: (i) Chính sách hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp chịu
ảnh hưởng của dịch bệnh cũng đang cho thấy nhiều bất cập trong việc thực thi,
khi doanh nghiệp muốn tiếp cận nguồn hỗ trợ này phải đáp ứng các thủ tục phức
tạp với chi phí lớn, như lập báo cáo kiểm toán, đánh giá thiệt hại, tự chứng
minh thanh khoản và khả năng trả nợ sau khi được cơ cấu lại nợ, v.v. Với các
thủ tục nói trên, nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhóm cần hỗ trợ nhất, có thể
lại là nhóm khó tiếp cận chính sách nhất. (ii) Do nguồn lực tài khóa hạn hẹp
sau nhiều năm thâm hụt ngân sách, cùng với việc chính sách tiền tệ bị ràng buộc
với các mục tiêu về lạm phát và tỷ giá, Việt Nam không thể theo đuổi các chính
sách vĩ mô theo cách tương tự như các nước khác trên thế giới, ví dụ như nới
lỏng tiền tệ quy mô lớn. Thêm vào đó, việc phòng chống dịch Covid19 và trợ cấp
an sinh xã hội do ảnh hưởng của dịch bệnh cũng đang tạo áp lực lớn lên cán cân
ngân sách. Ưu tiên hàng đầu lúc này là đảm bảo an sinh xã hội, giữ ổn định môi
trường kinh tế vĩ mô, giảm gánh nặng cho các doanh nghiệp phải tạm dừng hoạt
động và hỗ trợ các doanh nghiệp còn hoạt động. (iii) Các chính sách an sinh xã
hội vẫn cần được ưu tiên hàng đầu và cần phải được tiếp tục triển khai nhanh
chóng, đúng đối tượng, trước khi người dân rơi vào những bi kịch không đáng có.
Đặc biệt, việc thực thi chính sách cần quan tâm hơn đến lao động trong khu vực
phi chính thức bởi nhóm này chiếm một tỷ trọng lớn, dễ tổn thương, chịu tác
động nặng nề nhất và đang khó tiếp cận các chính sách hỗ trợ. (iv) Việc
khoanh/ngưng, miễn giảm chi phí tài chính cho doanh nghiệp như lãi vay, tiền
thuê đất cần tiếp tục được triển khai, bên cạnh đó, cần rà soát để cắt giảm mọi
gánh nặng có thể cho doanh nghiệp. Trong các phương án có thể, thì cần ưu tiên
cắt giảm kinh phí công đoàn (2% quỹ lương) để giảm chi phí cho doanh nghiệp.
Thứ hai, về phương diện sản
xuất: (i) Đẩy nhanh đầu tư
công, đặc biệt là các dự án trọng điểm quốc gia, đã được phê duyệt và đã được
bố trí vốn thực hiện trong các tháng còn lại của năm là việc nên làm để hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế. (ii) Việc chia nhỏ ra làm nhiều gói thầu và thực hiện rải
rác ở nhiều địa phương để tạo sự lan tỏa tốt hơn cũng có thể được cân nhắc.
Đồng thời, cắt giảm ngân sách thường xuyên (tiêu dùng) tối thiểu 10% nên được
thực hiện nhằm dành nguồn lực cho việc khắc phục những hậu quả do bệnh dịch gây
ra.
Thứ ba, về chính sách tiền tệ:
Gần đây, việc Mỹ chính
thức điều tra Việt Nam thao túng tỷ giá cũng yêu cầu NHNN cần cẩn trọng trong
việc điều hành chính sách tiền tệ. Với các diễn biến địa chính trị phức tạp
đang xảy ra trong khu vực, cần thận trọng với khả năng các cáo buộc thao túng
tiền tệ (và kèm theo đó có thể là các đòn trừng phạt thương mại) của Mỹ gây ảnh
hưởng đến các quyết định mang tính chiến lược khác của quốc gia. (ii) Trong mọi
tình huống, lạm phát, lãi suất và tỷ giá cần được duy trì ổn định để chuẩn bị
cho giai đoạn phục hồi sau bệnh dịch.
Thứ tư, về các chính sách vĩ
mô: Đa dạng hóa thị trường
xuất/nhập khẩu cũng cần được chú trọng hơn nữa nhằm tránh phụ thuộc nặng nề vào
một số đối tác kinh tế lớn. Trong khó khăn, nhiều bất cập trong việc điều hành
chính sách kinh tế cũng đã bộc lộ nên các nỗ lực cải thiện thủ tục hành chính,
môi trường kinh doanh cần tiếp tục được duy trì. Đặc biệt, dù có chậm trễ, Việt
Nam nên từng bước xây dựng đệm tài khóa để phòng chống những cú sốc kiểu Covid-19
hoặc những diễn biến bất ngờ của chính bệnh dịch này trong những năm tới.
>> Quý độc giả có thể xem toàn văn Báo cáo kinh
tế vĩ mô Việt Nam quý 2 và 6 tháng đầu năm 2020 của VEPR tại đây